ND- Ðất miền Tây Nam Bộ nổi tiếng là vựa lúa của cả nước. Nơi đây, những dòng sông hiền hòa uốn lượn tạo thế đất Cửu Long - đất Chín Rồng hướng ra Thái Bình Dương rộng lớn.
Trong bạt ngàn của mầu xanh ruộng lúa, rừng dừa, rừng đước và vô vàn cây trái đặc trưng ấy, trải qua mấy trăm năm có biết bao địa danh vừa lạ, vừa quen mà ông bà tổ tiên xưa đã đặt tên cho một vùng đất, một vùng sông nước. Vẫn còn đâu đây vang vọng tiếng chày giã gạo đều đặn, bền bỉ, để hình ảnh giã gạo từ trong truyền thống văn hóa trở thành nỗi nhớ, niềm thương. Ở miền Tây, vật dụng nhà nông được nhắc đến trong những câu chuyện kháng chiến thì rất nhiều, không bút mực nào kể xiết. Riêng câu chuyện về cái cối giã gạo giàu nghĩa tình quân dân, thắm tình thương yêu đồng chí, đồng đội, và trở thành phương tiện tải thương vượt sông thì khá hiếm hoi. Cho đến hôm nay, đã 34 năm sau ngày miền nam hoàn toàn giải phóng, chúng tôi mới được nghe một câu chuyện kháng chiến liên quan đến cái cối giã gạo cảm động đến như vậy!
Câu chuyện về cái cối trong chiến tranh
Câu chuyện xảy ra tại ngã ba sông Cái Gầm cách nay gần 40 năm. Sự kiện chỉ là một khoảnh khắc khốc liệt trong cuộc chiến tranh trường kỳ của dân tộc, nhưng chứa đựng đầy đủ cái trí, cái dũng, cái tình của người dân Nam Bộ, người chiến sĩ miền Tây. Hồi ấy, vào mùa mưa, nước làm ướt đẫm lán trại Trường đào tạo Quân y (T3) thuộc Quân khu 9 đóng tại vùng U Minh Thượng. Anh Ba là chiến sĩ của bộ đội địa phương quân tỉnh Kiên Giang và anh Tư là chiến sĩ Quân khu được cử đi học y sĩ tại Trường T3 năm 1970. Anh Tư hơn anh Ba khoảng 10 tuổi. Sau Tổng tiến công Tết Mậu Thân 1968, địch tuy thua đau, tổn thất nặng nề song càng điên cuồng mở nhiều cuộc càn quét, thọc sâu tiêu diệt bộ đội ta tại căn cứ U Minh. Với ý đồ đó, chúng mở chiến dịch "Nhổ cỏ U Minh" dùng bộ binh có máy bay trực thăng và xe thiết giáp yểm trợ bao vây Trường Quân y T3. Thời điểm ấy, anh Ba và anh Tư đã học xong lớp y sĩ và cùng ở lại học lớp bác sĩ cấp tốc. Lúc đó, hai người vừa tham gia lớp học vừa có nhiệm vụ bảo vệ gần 40 thương binh đang điều thương tại trường. Hôm ấy, khi trời vừa sáng rõ mặt, địch xuất hiện với lực lượng đông, hỏa lực mạnh. Ðơn vị quân y được lệnh khẩn cấp đưa thương binh vượt sông về căn cứ. Anh Ba, anh Tư trụ lại chặn địch, với vũ khí vỏn vẹn một khẩu súng AK, một súng B40. Trong chiến đấu, tổ xung kích mở đường tiến công địch hay tổ bọc hậu cho đơn vị rút lui đều ở trong tư thế sẵn sàng hy sinh vì đồng đội, vì nhiệm vụ chung của đơn vị. Tình huống anh Ba, anh Tư khi ấy cũng vậy!
Anh Tư nằm tì súng lên gốc đước nhả đạn cầm chân địch, thu hút hỏa lực địch, kéo dài thời gian để đồng đội đưa thương binh vượt sông an toàn. Ðịch kéo đến ngày càng đông và hè nhau bắn tới. Vườn cây rung lên, lá rơi rụng lả tả. Anh Ba nâng khẩu B40 hướng về phía chúng bắn quả đầu tiên. Áp lực của súng làm ngực đau nhức, không khí nồng nặc mùi thuốc súng. Anh Ba vội lắp đạn bắn phát thứ hai. Cả vườn tràm rung lên rồi như chao nghiêng. Anh chỉ thấy phía trước ngọn lửa bùng lên và nghe tiếng la ó thất thanh của địch.
Hai phát súng B40 của anh Ba đã diệt gọn hơn trung đội địch. Nhưng khi anh Ba vừa bắn xong hai quả đạn B40, cũng là lúc trực thăng địch từ trên cao quét đại liên xuống. Anh Ba bỗng thấy đau buốt bắp chân, liếc nhìn xuống thấy máu nhuộm đỏ ống quần. Thấy đồng đội bị thương, anh Tư trườn lẹ đến ôm bạn, quay lại quan sát đường rút rồi khom người cõng anh Ba chạy khoảng 100 m từ trong rừng U Minh Thượng về phía bờ sông Cái Gầm. Anh Tư vừa cõng bạn vừa động viên: "- Anh em chiến đấu có nhau, tao không để mày chết ở đây đâu!". Sau đó, anh Tư giấu anh Ba trong bụi tràm sát bờ sông, đưa khẩu AK còn nửa băng đạn cho bạn và dặn: "- Mày ráng chịu đau nằm đây chờ tao nhe. Tao đi khoảng 15 phút sẽ về đưa mày qua sông, hoặc tao hy sinh chứ không để mày chết ở đây đâu!". Khi đã giấu bạn vào một bụi cây, anh Tư lội qua sông và đến một nhà dân là cơ sở cách mạng gần đó để lấy cối giã gạo (bằng gỗ) lớn hai người ôm về làm bè đưa anh Ba qua sông. Trong những năm bám dân kháng chiến, ăn nhờ dân, ở nhờ dân, được dân bao bọc nên chuyện nhà nào có nông cụ gì anh Tư đều biết, và biết rõ nhà ai có cối giã gạo, cung cấp gạo cho bộ đội, du kích hoạt động.
Khoảng 15 phút sau, anh Tư lội sông trở lại với cái cối giã gạo, anh nhấc bổng anh Ba rồi đặt lọt trong lòng cối, dùng lục bình phủ lên ngụy trang và vừa bơi, vừa đẩy cái cối giã gạo chở anh Ba an toàn vượt dòng sông Cái Gầm rộng lớn, sóng nước dâng trào. Mầu xanh đám lục bình hòa vào mầu xanh hai bờ sông mọc toàn cừ tràm, ô-rô, đước. Ðịch tiến đến tận bờ sông nhưng không phát hiện ra. Khi hai người đã qua sông an toàn, nhìn lại bờ bên kia, anh Tư bỗng giật mình vì nếu chỉ chậm vài phút thì cả hai chắc chắn sẽ chết. Thực tế là sau khi bắn bị thương anh Ba, nhưng không bắt được, địch điên cuồng truy lùng theo vết máu dính trên cây cỏ hai bên đường tìm kiếm nhưng không thấy. Máy bay trực thăng quần đảo liên hồi, chúng còn dùng súng bắn tới tấp khu vực mà chúng nghi bộ đội ta đang ẩn trú.
... Về đến đơn vị, anh Ba nhanh chóng được cứu chữa, sức khỏe hồi phục dần. Anh Ba, anh Tư lại tiếp tục cùng đồng đội tham gia nhiều trận đánh lớn ở miền tây cho đến ngày kháng chiến chống đế quốc Mỹ thắng lợi hoàn toàn. Sau ngày miền nam giải phóng, công việc bề bộn giải quyết hậu quả sau chiến tranh. Anh Ba, anh Tư đều là thương binh, được xuất ngũ chuyển sang nhận nhiệm vụ công tác mới. Anh Tư xuất ngũ về làm Phó Giám đốc Bệnh viện Kế Sách (huyện Kế Sách, tỉnh Sóc Trăng). Còn anh Ba trở về Kiên Giang giữ nhiều trọng trách lãnh đạo Ðảng, chính quyền tại địa phương, rồi Trung ương. Tuy nhiên, trong tâm trí anh Ba luôn mong muốn tìm gặp người đã cứu sống mình. Thời gian cứ dần trôi qua, công việc dồn dập và cho mãi đến hôm nay, hai người đồng đội cũ mới gặp nhau. Câu chuyện về cái cối nghĩa tình mới được kể!
Anh Tư lập gia đình, có ba con. Hiện một người con trai là bộ đội, một người con trai là công an và một người con gái làm ở trường Chính trị tỉnh Sóc Trăng. Năm 1990, anh Tư về hưu, hiện hợp đồng làm bảo vệ cho cơ quan Ðiện lực huyện Kế Sách. Căn nhà mà gia đình anh sinh sống do Công đoàn Bệnh viện Thành phố Hồ Chí Minh tặng.
Gặp lại đồng đội
Anh Ba trong câu chuyện kể trên là đồng chí Nguyễn Tấn Dũng - Thủ tướng Chính phủ hiện nay. Còn anh Tư chính là đồng chí Phan Trung Kiên, hiện đã gần 70 tuổi, là tấm gương sáng về lòng quả cảm, đức hy sinh vì nước. Năm 2009, cả nước thực hiện Cuộc vận động "Học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh" với chủ đề: Nâng cao tinh thần trách nhiệm, hết lòng, hết sức phụng sự Tổ quốc, phục vụ nhân dân. Bác Hồ trong những tháng năm hoạt động cách mạng gian khổ nhất, khi Cách mạng Tháng Tám chưa thành công đã làm bài thơ Nghe tiếng giã gạo để tự khuyên mình:
Gạo đem vào giã bao đau đớn
Gạo giã xong rồi trắng tựa bông
Sống ở trên đời người cũng vậy
Gian nan rèn luyện mới thành công
Ðồng chí Phan Trung Kiên là một tấm gương sáng về Học tập và làm theo tấm gương đạo đức Bác Hồ.
Sáng ngày 10-7-2009, đồng chí Nguyễn Tấn Dũng (thường gọi thân mật là anh Ba Dũng) về Cần Thơ khởi công xây dựng cảng Cái Cui giai đoạn hai. Ðây là công trình khi xây dựng xong sẽ là cảng lớn nhất khu vực đồng bằng sông Cửu Long, có thể đón tàu hàng trọng tải 20 nghìn tấn. Cụm cảng Cái Cui gồm hệ thống cầu cảng, kho chứa hàng và thiết bị bốc dỡ công-ten-nơ hiện đại. Cảng Cái Cui khi hoàn thành sẽ làm giảm áp lực về vận chuyển, bốc dỡ hàng hóa đổ dồn về cảng Sài Gòn, đồng thời tạo thế liên hoàn trong cụm cảng các tỉnh đồng bằng sông Cửu Long, trong đó có các cảng quan trọng như hệ thống cảng Cà Mau, Kiên Giang.
Chiều cùng ngày, anh Ba Dũng về thăm đồng đội cũ là ông Tư - Trung Kiên. Những năm tháng chiến tranh đã lùi xa theo thời gian, song ký ức về những năm tháng gian khổ mà hào hùng ấy vẫn còn mãi như một dòng chảy của hồi ức luôn thầm lặng và mãnh liệt. Ông Trung Kiên không biết rằng, có một người đồng đội đã đi tìm ông hơn 35 năm qua để tri ân, để ôn lại những kỷ niệm thời kháng chiến, và tạ ơn với gia đình ngày xưa có cái cối giã gạo được sử dụng với chức năng là cái bè đưa ông qua sông, thoát hiểm. Khi nghe tin bạn đến thăm, ông Trung Kiên mừng lắm. Bạn cũ gặp nhau, đồng đội gặp nhau còn gì bằng! Thế nhưng, ông đâu có ngờ rằng, người đồng đội cũ năm xưa lặn lội đi tìm thăm ông lại là Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng. Hai người đồng đội ôm chặt lấy nhau. Anh Ba Dũng xúc động, nước mắt dâng trào...
Lời kết
Quê tôi ở Bến Tre. Gần nhà tôi có con sông rộng khoảng 100 m. Tuổi thơ tôi và những năm tháng cùng đồng đội đi kháng chiến vạn nẻo đường. Ở đâu, tôi cũng gặp những dòng sông quê hương. Câu chuyện về cái cối nghĩa tình liên quan đến anh Ba, anh Tư kể trên bỗng cho tôi một liên tưởng thú vị. Ðã bao giờ, trong nhà Bảo tàng kháng chiến Nam Bộ, hoặc tại một bảo tàng cách mạng địa phương, cái cối giã gạo được đặt trang trọng như kỷ vật chiến trường? Ðã từng có những vật dụng nhà nông như hũ gạo nuôi quân, bếp lửa Hoàng Cầm, áo lá, niêu cơm, lưỡi liềm, lưỡi hái... được trân trọng trong Viện Bảo tàng? Tháng 7 này, quê tôi có một sự kiện lớn. Ðó là lễ khởi công xây dựng cầu Bến Tre 1 hiện đại vượt sông Bến Tre thay thế cho cầu Cái Cối bằng sắt đã hư hỏng nhiều, không đáp ứng yêu cầu giao thông khi thị xã Bến Tre sắp tổ chức Lễ công bố trở thành thành phố trực thuộc tỉnh. Khi ấy, tên cầu Cái Cối sẽ ít được mọi người nhắc tới. Song, địa danh Cái Cối thì người Bến Tre không thể quên, bởi tại địa danh này hơn trăm năm trước đã ra đời một làng nghề làm cối giã gạo, để gạo trắng nước trong xứ Dừa hóa thân thành sản vật bánh tráng Mỹ Lồng, bánh phồng Sơn Ðốc đi khắp trăm miền. Cuộc sống công nghiệp hôm nay đã có máy gặt, máy xay xát để hạt gạo đồng bằng sông Cửu Long xuất khẩu đi các châu lục. Với tôi, cái cối giã gạo bằng gỗ, bằng đá ngày xưa ấy luôn là nỗi nhớ, niềm thương về tình quê hương, nghĩa đồng bào, đồng chí. Vẫn còn vang vọng mãi tiếng giã gạo điểm nhịp đều đặn, bền bỉ của người nông dân nuôi quân đánh giặc và sóng sánh hình ảnh sông nước có người chiến sĩ đẩy cái cối giã gạo chở đồng đội bị thương phá vòng vây địch, về đến căn cứ an toàn, để rồi cùng đơn vị chiến đấu đến ngày thắng lợi hoàn toàn...
HUỲNH PHƯƠNG DUNG