Trong bối cảnh đó, quan niệm coi rừng là người mẹ, là nguồn sống nên phải bảo vệ rừng là một nét văn hóa đặc sắc của đồng bào vùng cao...
Ngày nọ đến Lai Châu, tôi vào một bản của đồng bào Lự ở huyện Tam Ðường. Bản nhỏ nhưng rất đẹp, vì tựa lưng vào những cánh rừng xanh bạt ngàn, giữa bản nổi lên ngôi trường mới năm bảy gian, ngói đỏ tươi. Ðứng từ bản nhìn ra xa xa, giữa ngút ngàn cây cối lại thấy có một khoảng rừng xanh thẫm, cao vọt hẳn lên. Tò mò, tôi hỏi anh trưởng bản thì biết đấy là khu rừng cấm, nơi bà con trong bản thờ thần Rừng, mở hội cúng vào ngày mùng 3-3 âm lịch hằng năm. Trưởng bản bảo:
- Rừng là bà mẹ, là nguồn sống. Bảo vệ rừng là bảo vệ mẹ, bảo vệ nguồn sống. Muốn chặt cây phải xin phép thần Rừng, phải trồng tiếp vào đó một cây khác.
Anh chỉ cho tôi xem một gốc cây táu đã chặt sát đất và kể:
- Ðể làm trường học, bản mình phải làm lễ cúng xin thần Rừng rồi mới được chặt, cây táu này đủ làm cả ngôi trường trong bản đấy.
Cây táu không còn nhưng chỉ nhìn mấy cái rễ cây xù xì mốc thếch như con trăn trồi lên trên mặt đất cũng đủ biết cây to đến chừng nào. Hiểu được một tập quán từ bao đời của bà con, tôi thật sự ngỡ ngàng. Hóa ra trong khi có những con người hiện đại, mức sống cao hơn, nhận thức về xã hội-tự nhiên sâu sắc hơn, vẫn hằng ngày vác búa, vác cưa đi tàn phá rừng, thì ở bản Lự xa xôi này, nơi mà cách đây vài năm mới có điện, có ti-vi, thì bà con lại yêu rừng, kính trọng rừng đến vậy. Ở bản, tôi nhận ra một điều là dù sống ngay bên cạnh rừng nhưng các ngôi nhà của bà con hầu như chưa làm mới. Phần lớn là nhà cũ, cột gỗ lâu ngày đen bóng, tuổi đời có lẽ đến năm bảy chục năm. Ðống củi của các gia đình chất ở đầu hồi nhà chủ yếu là củi cành. Anh Trưởng bản bảo:
- Dân bản đi lấy củi không bao giờ chặt cây, chỉ tỉa cành hoặc chặt những cây chẳng may bị gió mạnh làm đổ hoặc vì lý do nào đó mà cây bị chết khô.
Tôi hẹn với Trưởng bản sang năm sau sẽ trở lại dự lễ cúng rừng, vậy rồi vì việc này việc khác vẫn chưa đi được. Nhưng qua tìm hiểu, tôi lại biết ở vùng núi Tây Bắc, không chỉ đồng bào Lự mà cả đồng bào Nùng, Phù Lá... cũng có cùng một tập quán như thế.
Lễ cúng rừng của người Phù Lá có tên là "lau pỉn phù", được tổ chức hằng năm vào ngày mùng 2-2 âm lịch: " Ðối với người Phù Lá, rừng đóng vai trò rất quan trọng trong đời sống, che chở cuộc sống con người, con người khai thác các sản vật trong rừng để nuôi sống bản thân. Rừng còn là nơi sinh sôi nảy nở sự sống của muôn loài muôn vật, muốn có cuộc sống ấm no hạnh phúc, tránh được tai ương thì phải làm lễ cúng thần Rừng. Mỗi bản của người Phù Lá đều có một khu rừng cấm mà bà con coi là nơi chứa đựng những điều may rủi sẽ đến với bản làng, do đó làng phải thờ cúng để cầu mong sự may mắn, cuộc sống bình yên. Cả làng đều phải tuân theo các quy ước đã đặt ra đối với khu rừng cấm, như cấm không được chặt cây, đốt rừng, phá rừng... Vào ngày lễ "cúng rừng", đồng bào chuẩn bị chu đáo từ các ngày trước, mọi gia đình đều đóng góp về vật chất. Từ sáng sớm, dân chúng trong bản đã tề tựu về rừng cấm để tham dự. Sau các nghi thức tế lễ, mọi người cùng ăn uống vui vẻ ngay tại nơi tổ chức cúng rừng. Khi về nhà, các gia đình đều làm một cái cờ bằng vải đỏ gọi là "phòng manh" treo ngang cửa ra vào, để cầu mong những điều may mắn đến với gia đình, người và vật nuôi được khỏe mạnh, cầu mong mùa màng bội thu, mưa thuận gió hòa...
Tương tự như vậy, truyền thuyết của đồng bào Nùng kể rằng: "Con người vốn có chung một tổ tiên, từ đó sinh ra các thế hệ con cháu nối tiếp nhau, đoàn kết bên nhau để lập làng, dựng bản. Nhờ rừng núi mênh mông, thời tiết thuận hòa, đất đai màu mỡ, cây cỏ xanh tươi mà con người mới xây dựng được một cuộc sống ấm no hạnh phúc. Cũng như con người, đất, trời, rừng, núi là tổ tiên, linh hồn của vạn vật và bảo vệ, che chở cho thế giới tồn tại. Vì vậy, cùng với việc thờ cúng gia tiên trong các ngày lễ, Tết cổ truyền, con người còn phải cúng rừng, cầu rừng phù hộ che chở cho mùa màng tốt tươi, không bị sâu bọ hay gió mưa dập vùi, gia súc gia cầm không bị bệnh dịch; cầu rừng núi, tổ tiên phù hộ cho người Nùng tránh khỏi chiến tranh, loạn lạc. Rừng đã trở thành nước non của bản, rừng phải được thờ cúng như tổ tiên... Vì thế hằng năm, cứ mỗi độ xuân về, bà con người Nùng lại tấp nập mở hội Cúng rừng Cấm bang (tiếng Nùng gọi là Cungj chưx-cungj nangq khau hên). Hội cúng rừng được tổ chức thành hai hội ở hai khu rừng cấm khác nhau, vào hai thời điểm khác nhau. Ðó là hội cúng rừng Cấm bang ở đầu bản vào ngày 30 tháng Giêng và hội cúng rừng cấm giữa cánh đồng vào ngày mùng 2-7 âm lịch. Hội Cấm bang tổ chức tại chân rừng cấm. Người đại diện gia đình phải là con trai; già, trẻ đều được dự. Ðến hội, ai cũng phải ăn mặc chỉnh tề, không được để đầu trần, chân đất và tự đem bát đĩa cơm rượu đóng góp theo khả năng của mình. Các gia đình ở nơi khác, ngoài thôn bản và đồng bào các dân tộc khác trong khu vực cũng được phép dự hội, miễn là tuân thủ các tục lệ cũng như các quy định chung của ban tổ chức đề ra. Hội tổ chức ăn uống tập trung như một hội thề, không phân biệt già trẻ, giàu nghèo, vì tất cả thức ăn đều nấu chung một chảo và chia đều. Gia đình nào không có người tham dự cũng được chia phần. Người chủ lễ cũng cùng ăn uống trong không khí chan hòa tình cảm gia đình. Trong tiệc hội, mọi người vừa ăn uống, vừa trao đổi, chuyện trò về kinh nghiệm sản xuất, về kế hoạch làm ăn năm mới, hoặc hứa giúp nhau vốn liếng để làm ăn, đổi công giúp việc sao cho gia đình nào cũng có đủ cơm ăn áo mặc. Giữa tiệc hội, chủ lễ trịnh trọng kêu gọi mọi người chín bỏ làm mười, đoàn kết bên nhau. Cầu thần Rừng phù hộ độ trì, che chở cho dân làng được bình an, mùa màng tươi tốt, đồng thời yêu cầu mọi người thực hiện tốt các quy định được bàn bạc, nhất trí trong lễ hội.
Các nghi thức tín ngưỡng dân gian trên đây, xét trên phương diện quan hệ giữa con người với tự nhiên, thật sự là một thái độ nhân văn và đầy trách nhiệm. Ðó là sản phẩm văn hóa của một thời rất xa, chứa đựng trong đó quan niệm về "hai thế giới", nhưng cũng đồng thời thể hiện một thái độ sống hiện thực và có trách nhiệm của con người. Xưa kia, với nhận thức về tự nhiên - xã hội - con người còn ở trình độ thấp và kinh tế tự nhiên đã chi phối việc cư dân miền núi có cuộc sống gắn bó với rừng. Ngày nay, trình độ nhận thức đã phát triển, xã hội đã phát triển... và dù quan niệm về "hai thế giới" không còn nữa thì vẫn để lại một thái độ sống, một quan niệm sống hết sức nhân văn là phải bảo vệ rừng, giữ lấy rừng. Rừng không chỉ là nguồn gỗ quý và các lâm thổ sản, mà rừng còn chính là "lá phổi" của trái đất, của mỗi quốc gia.
Vài chục năm trước, lên Tây Bắc hay Việt Bắc, đi đến đâu mọi người cũng đều phải kinh ngạc trước sự hùng vĩ của núi rừng. Ngày còn nhỏ, tôi đã vài lần đi qua con đường từ Yên Bái tới Phố Lu. Ngày ấy, con đường mới hoàn thành, lên dốc xuống đèo, uốn lượn quanh co giữa rừng và núi. Mặt đường trải nhựa, song nhiều đoạn, tre nứa hai bên đường ngả xuống, giao nhau trùm kín, đi trên đường mà như đi trong hầm, được làm nên bởi những bụi tre nứa. Ðoạn nào quang quẻ thì trước mặt, sau lưng, rồi hai bên đường chỉ có rừng và rừng, cây nào cây nấy cao vút, to lừng lững. Hơn hai chục năm sau trở lại, không còn gặp những cánh rừng ngày trước, chỉ còn lô nhô núi đồi trọc lốc, trơ khấc, sạt lở. Thi thoảng lại thấy bên đường một hai chú trâu lầm lũi kéo lệt xệt mấy đoạn gỗ ngắn ngủn, cong queo. Hỏi bà con thì được trả lời:
- Ði xa lắm, đi từ hôm qua mới lấy được khúc gỗ này.
Cảnh tượng như thế tôi cũng đã gặp ở nhiều nơi trên Tây Bắc, Việt Bắc, ở ven Trường Sơn, ở Tây Nguyên... Dẫu trên đường đi hay tới các bản làng xa xôi, ở nhiều nơi, hình ảnh những cánh rừng bạt ngàn như chỉ còn là ký ức của một thời, chỉ có thể nhận diện qua dãy cột nhà sàn, qua chiếc cối giã gạo, qua những vật dụng bằng gỗ đã mòn vẹt theo thời gian. Có lúc, từ trên máy bay nhìn xuống, chỉ thấy những vạt rừng lác đác xanh, còn lại là núi, là đồi nối tiếp nhau, đỏ quạch một mầu. Khi những người phá rừng vác búa vác cưa tìm đến nơi khác để phá tiếp, họ để lại những cánh rừng tan hoang. Họ vắt kiệt những gì mà rừng đem tới cho những người dân đã bao đời gắn bó với rừng, sống vì rừng. Không ai khác, chính những người phá rừng kia là một tác nhân tạo ra cơ hội để lũ quét, lũ ống, để hiểm họa sạt lở đất hoành hành... Một trong các nguyên nhân đẩy tới những biến đổi bất thường, theo chiều hướng xấu của khí hậu trái đất trong những năm gần đây là do rừng bị tàn phá nghiêm trọng. Khi những nguồn lợi từ rừng bị khai thác một cách thực dụng, bừa bãi và vô ý thức đã không chỉ đem đến hậu quả trước mắt mà còn gây hậu quả lâu dài...
Những ngày này, khi mưa lũ đang gây nên bao nhiêu tai họa cho các tỉnh vùng núi phía bắc, một lần nữa tổn thất về người, về của lại làm đồng bào cả nước se lòng, rộng vòng tay "lá lành đùm lá rách". Mưa lũ kinh hoàng lại làm nhớ tới bản Lự mà tôi ghé qua hôm nào, nhớ đến tập quán rất đáng trân trọng của những người dân miền núi đôn hậu và chất phác. Cuộc sống còn nhiều khó khăn, đời sống vật chất - tinh thần ở đây chưa được như đồng bào miền xuôi, nhưng những người dân đôn hậu, chất phác ấy lại là tấm gương để chúng ta học tập. Và đối với rừng, phải học hỏi quan niệm đầy ý nghĩa nhân văn của những người dân miền núi đã sống với rừng, biết rõ giá trị của rừng, rằng: Phải coi rừng là người mẹ, là nguồn sống. Bảo vệ rừng là bảo vệ mẹ, bảo vệ nguồn sống. Có như thế, chúng ta mới có ý thức tự giác về trách nhiệm của mình. Làm được việc ấy, sẽ không chỉ giữ gìn cuộc sống của chính chúng ta mà còn vì cuộc sống của con cháu trong tương lai.