Quốc Tổ Hùng Vương

Quốc Tổ Hùng Vương

Nhân vật quan trọng này, đến thế kỷ 15 - khi sử thần Ngô Sĩ Liên được vua Lê Thánh Tông giao việc chép sử - thì đã "vào" được bộ Ðại Việt sử ký toàn thư, với danh hiệu là "Vua", trong đoạn sử bút: "Vua, gọi là Hùng Vương. Bấy giờ, dân ở rừng núi, thấy ở sông ngòi khe suối đều có tôm cá, nên rủ nhau đi bắt cá để ăn, thường bị thuồng luồng làm hại, bèn đến thưa. Vua nói: "Người man ở núi, khác với loài thủy tộc; các loài ấy, ưa cùng loài mà ghét khác loài, cho nên mới hay hại loài người. Rồi vua bảo mọi người lấy mực, vẽ hình thủy quái ở mình. Từ đấy không bị thuồng luồng cắn hại nữa".

Các nhà ngôn ngữ học đã khôi phục và chứng minh: chữ "Vương" trong danh hiệu "Hùng Vương", là kết quả của quá trình thông âm rồi dịch nghĩa: "bố - bô - bua - vua - vương", thấy được  ở trong đoạn văn chính sử này.

Còn các nhà sử học thì nói: "Hùng Vương" đã hiện hình trong vai trò của một thủ lĩnh, nhiều công tích của (đối với) chúng dân, như thế.

Tiếp đến giữa thế kỷ 15, các sử thần triều Nguyễn, khi biên soạn bộ Khâm định Việt sử thông giám cương mục, đã có lời cẩn tấu với vua Tự Ðức rằng: "Hùng Vương đặt kinh đô, dựng nước, trải qua năm tháng rất dài lâu. Các vị vua ấy, đều là vua mở đầu của nước Việt ta", nhân đó, nhận được dụ chỉ là: "Chuẩn y cho chép bộ sử này, bắt đầu từ Hùng Vương, để nêu rõ quốc thống nước Việt ta, trước đã là từ đấy".

Vậy là nhận ra được: Hùng Vương, đến đây, từ chỗ là Bô - Bố của chúng dân, đã trở thành Vương - Vua của đất nước, và là "Vua mở đầu (quốc thống) của đất Việt ta".

Ở một "kênh truyền dẫn" khác của lịch sử, tụ tín hiệu lại ở trên ngọn núi Hùng - trung tâm của "bộ" (hoặc bộ lạc - như thấy chép nguyên văn trong sách Ðại Việt sử lược) là Văn Lang - ta lại thấy: Từ chỗ là và có một ngôi miếu cổ sơ đầu tiên - mái lá, lợp trên bốn cột đá đẽo (mà sau khi - theo thời gian - trở thành phế tích), thì một trong số đó, từ năm 1968, đã được chuyển hóa thành cây "cột đá thề của An Dương Vương đối với Hùng Vương". Càng về sau, càng nguy nga mà hiện dần lên cả một hệ thống đền miếu, điện đài, lăng mộ, để thờ phụng và làm chứng tích huyền kỳ cho vị thần thánh linh thiêng đã hóa thân thành thủ lĩnh của bộ (lạc) Văn Lang, rồi cả nước Văn Lang thời "quốc sơ" - Hùng Vương. Quá trình phát triển cổ sơ của sự tôn sùng thờ phụng đó, cũng đồng thời thần linh hóa Hùng Vương thành "Thánh Vương", như thấy được mệnh danh ở trên đầu bản thần tích "Cổ Việt, Hùng thị nhất thập bát thế Thánh vương ngọc phả cổ truyền", tự báo niên đại viết, là vào năm 1470.

Ý thức dân gian, hợp cùng chữ nghĩa bác học, vậy là đã hội tụ hai dòng chảy của văn hóa bình dân và văn hóa cung đình, trên và trong trường kỳ lịch sử dân tộc, vào và ở một huyệt điểm và cao điểm, để hình thành rồi thành hình cả một hiện tượng kỳ vĩ rõ ràng: Sự xuất lộ ở buổi đầu thời dựng nước của bậc quân chủ và vị vua thánh đầu tiên - Hùng Vương.

Cuộc hội tụ văn hóa và lịch sử đặc sắc này, còn khiến đột xuất và kiệt xuất về mặt sáng tạo, nhưng tất yếu và hiển nhiên về mặt lịch sử, một sự chuyển hóa, không chỉ đơn thuần ở phương diện danh hiệu, mà còn và chính là sự cao sâu, giàu có về thực chất của thực thể. Ðó là sự chuyển hóa từ "vương" thành "tổ" như thể hiện ra ở bốn chữ đại tự viết cao trên nóc tòa Ðền Thượng: Nam Việt Triệu Tổ, và cả ở trong ngôi Ðền Trung, giữa vàng son của bức hoành phi Triệu Tổ Nam bang, đều xây dựng trên núi Hùng để tôn thờ và tưởng niệm Hùng Vương.

Ðó là một sự tôn thờ và tưởng niệm có rất nhiều ý nghĩa trọng đại, mà trước tiên liên quan đến cuộc trường tồn và sự thịnh vượng của quốc gia, đất nước và dân tộc. Năm 1785, nguyên soái Tổng quốc chính Ðoan Nam Vương (Trịnh Khải) đã có lệnh chỉ - và năm 1789, ngay sau đại thắng Ngọc Hồi - Ðống Ða, Quang Trung hoàng đế (Nguyễn Huệ) cũng đã có sắc chỉ - cho dân "trưởng tạo lệ" là xã Hy Cương ở dưới chân núi Hùng, phải "phụng mệnh nghiêm cẩn tế tự theo nghi thức, khiến quốc mạch (mạch nước) được lâu bền". Ðầu thế kỷ 20, những câu đối rất hay của Tản Ðà Nguyễn Khắc Hiếu : "Có tổ có tông, có tông có tổ, tổ tổ tông tông, tông tổ cũ / Còn non còn nước, còn nước còn non, non non nước nước, nước non nhà".

Và của Vũ Ðình Khôi : "Cháu chắt còn, tông tổ hãy còn, nòi giống nhà ta sinh sản mãi/ Nắng mưa thế, miếu lăng vẫn thế, non sông đất nước vững bền lâu".

Kính đề ở núi Hùng, cũng là để rạng rỡ cái ý nghĩa thiêng liêng trọng đại ấy. Và thế là, đến lượt cái tinh thần ấy, tìm gặp được một hình thức sinh hoạt văn hóa - xã hội cổ truyền và quen thuộc của lịch sử và dân tộc, cũng rất đỗi thiêng liêng và trọng đại, để thể hiện ra, bằng và thành "ngôn ngữ" của lễ hội. Ðó là việc/và ngày Giỗ Tổ.

Giỗ Tổ Hùng Vương tôn vinh, tưởng niệm để noi theo tổ tiên của cả quốc gia, đất nước và dân tộc, là đặc sắc đến mức độc nhất vô nhị, không chỉ đối với Việt Nam, mà còn đối với toàn nhân loại. Càng đặc sắc nữa, khi Giỗ Tổ Hùng Vương trở thành quốc lễ (tức "quốc tế" trong ngôn ngữ triều chính thời xưa) như đã ghi khắc ở tấm bia "Hùng miếu điển lệ", có niên hiệu Khải Ðịnh, dựng đặt bên ngôi Ðền Thượng: "Nay phụng mệnh theo bộ lễ, chuẩn định ngày quốc tế tại miếu Tổ Hùng Vương, là ngày mồng mười tháng ba".

Và bây giờ, vào thời hiện đại, với cuộc và dịp Giỗ Tổ Hùng Vương: Quốc hội khóa XI, kỳ họp cuối cùng, đã thông qua quyết định sửa đổi Luật Lao động, để ngày mồng mười tháng ba (âm lịch) trở thành một ngày nghỉ (vẫn được hưởng lương) của mọi người, từ nay.

Ở đề án, sáng kiến của dân "trưởng tộc lệ" hiểu theo nghĩa mở rộng ở thời hiện đại của từ này, vùng núi thiêng Ðền Hùng, là tỉnh Phú Thọ, trình QH để vừa được thông qua, có đề cập đến nhiều ý nghĩa và giá trị của việc nghỉ ngày quốc lễ, giỗ Quốc Tổ Hùng Vương, trong đó, cùng với việc đề cao, cổ vũ tinh thần dân tộc và văn hóa dân tộc, tạo điểm nhấn sáng giá cho cuộc sống xã hội và tinh thần hiện đại, có việc bồi dưỡng các giá trị truyền thống cho thế hệ trẻ ngày nay, và mai sau.

Ý tưởng tốt đẹp này, vừa có một dịp "cọ xát thực tế", là ở vòng chung kết cuộc thi kiến thức "Ðường lên đỉnh Olympia" năm thứ 7 đang được giới trẻ rất hâm mộ, phát sóng trực tiếp trên vô tuyến truyền hình Việt Nam ngày 1-4-2007, những thanh niên học sinh ưu tú cuối cấp PTTH trong khi rất giỏi - chỉ qua hình ảnh mấy đồng tiền euro, vài gương mặt nguyên thủ quốc gia, và một thoáng trình tấu của dàn nhạc giao hưởng Ðức - nhận ra ngay: Ðây là Lễ kỷ niệm 50 năm thành lập Liên minh châu Âu, thì đã không trả lời được về chủ đề của ngày nghỉ lễ vừa được QH thông qua, là gì. Ðúng hơn, có thí sinh đã trả lời rằng: Ðó là Ngày Quốc tế Lao động 1-5, rồi chữa (thêm) rằng: Ðó là Ngày Giải phóng miền nam 30-4 (!).

Dịp nghỉ lễ 30-4 - 1-5 đang tới, kèm với hiện tượng "cháy tua du lịch", đổ xô mua sắm hàng hóa, cửa nhà, và chen chúc nhau thưởng thức các cuộc trình diễn tân kỳ. Liệu những "chủ đề tư tưởng" cao quý như dự trù cho Quốc Tổ Hùng Vương, vào dịp nghỉ lễ Giỗ Tổ mồng 10 tháng ba này, có bị chìm đắm trong làn sóng sinh hoạt và hưởng thụ vật chất, tiện nghi bây giờ?

Chắc rằng còn cần phải nói nhiều và nhiều cách nói cho rõ, cho hay, về Quốc Tổ và Giỗ Tổ Hùng Vương, trong đó có việc Chủ tịch Hồ Chí Minh đã mẫu mực và kỳ diệu như thế nào, trong ứng xử và vận hành chủ đề này. Nhiều người đã biết ở lần thứ nhất về với núi thiêng Ðền Hùng, Bác đã chọn thời điểm kết thúc cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp, mở ra thời kỳ hòa bình năm 1954 để nói câu bất hủ của Người, về "Các Vua Hùng đã có công dựng nước, Bác cháu ta phải cùng nhau giữ lấy nước". Khi ấy, nhất là ở thời kỳ kháng chiến chống Mỹ, cứu nước sau đấy, mọi người đều hiểu và làm theo ý Bác: "Cùng nhau giữ lấy nước", tức là chiến đấu, đấu tranh, để hễ còn một tên xâm lược trên đất nước ta, thì còn phải chiến đấu, quét sạch nó đi. Nhưng giờ đây, ở buổi hội nhập lúc này, chắc chắn còn phải hiểu thêm và hiểu kỹ rằng "cùng nhau giữ lấy nước", chính là giữ lấy bản sắc, bản lĩnh dân tộc, giữ lấy quốc hồn, quốc túy, truyền thống của dân tộc.

Còn lần thứ hai năm 1962, Chủ tịch Hồ Chí Minh về với núi thiêng Ðền Hùng, thì có thể nhiều người chưa biết rằng: Người đã chọn đúng ngày kỷ niệm Cách mạng Tháng Tám. Ðó là năm thứ hai của thời kỳ "thắt lưng buộc bụng" thực hiện kế hoạch 5 năm lần thứ nhất để xây dựng miền bắc quá độ lên CNXH, và là năm cuối của giai đoạn đầy gian khó đánh bại cuộc chiến tranh đặc biệt của đế quốc Mỹ ở miền nam. Buổi sáng ngày 19-8-1962 ấy, Bác đã từ chân núi Hùng lên đến khu Ðền Hạ. Những người tháp tùng, sợ Bác mệt, đã xin Bác nghỉ lại, và mời Bác xuống núi. Nhưng đến 11 giờ trưa thì Bác vẫn lên được tới Ðền Thượng. Bảo tàng Hùng Vương và Bảo tàng Hồ Chí Minh bây giờ, vẫn đang lưu trữ được lời Bác nói khi ấy: "Leo núi, phải lên đến đỉnh. Cũng như người làm cách mạng, không được bỏ dở chừng. Ðã đi, phải tới đích".

Có thể bạn quan tâm