Tròn 50 năm qua, công cuộc khai phá vùng đất hoang vu đã phải đánh đổi bao mồ hôi, công sức, thậm chí cả máu và nước mắt mới có được vùng quê trù phú, tươi đẹp hôm nay.
Nửa thế kỷ dựng quê hương mới
Như đã hẹn, sáng sớm mồng 8 Tết Quý Tỵ, từ thành phố Sơn La, chúng tôi vào huyện Sông Mã chia vui với bà con bản Hưng Mai và dự Lễ kỷ niệm 50 năm Ngày lên xây dựng quê hương mới. Tỉnh lộ 105 năm xưa phải vượt qua đèo Phu Sỉ Nạ dốc đứng, cua tay áo, lội qua 34 khúc suối đầy gian khó nay đã thành quốc lộ 4G, đi lại dễ dàng. Ðây cũng chính là con đường tròn nửa thế kỷ trước đồng bào khai hoang gồng gánh đi bộ cả ngày đường, giờ chúng tôi chỉ mất hơn một tiếng đồng hồ là vào đến trung tâm thị tứ Chiềng Khương, giáp biên giới Việt Nam - Lào.
Bắt đầu từ đây, cách trung tâm huyện 30 km, chính là nơi bắt đầu vùng đất định cư của đồng bào khai hoang tỉnh Hưng Yên. Suốt chiều dài hơn 50 km hai bên bờ sông Mã, từ xã Chiềng Khương, Chiềng Cang, Chiềng Khoong, Nà Nghịu, lên đến Chiềng Sơ đều là nhà cửa, ruộng vườn, và hàng nghìn héc-ta nhãn lồng Hưng Yên đang trổ hoa.
Trưởng bản Hưng Mai Nguyễn Minh Ðức và Bí thư Chi bộ Nguyễn Mạnh Hùng ra đón chúng tôi. Hôm nay, Nhà văn hóa bản Hưng Mai đông vui hơn ngày hội, cái ngày mà mọi người mong đợi từ rất lâu. Những người con, dâu, rể của bản Hưng Mai là cán bộ, kỹ sư, giáo viên, bác sĩ, có người là phó giáo sư, tiến sĩ, nghệ sĩ ưu tú từ khắp mọi miền trong cả nước, trong tỉnh đều về đông đủ. Trưởng bản Nguyễn Minh Ðức giới thiệu các cụ ngồi ở hàng ghế đầu: "Sáng lập bản Hưng Mai ban đầu là 41 hộ gia đình của hai thôn Lệ Chi, Thủy Lôi, xã Anh Dũng và chín hộ gia đình của hai thôn Mai Xá, Ðiền Xá, xã Minh Phượng, huyện Tiên Lữ lên xây dựng kinh tế mới. Tròn 100 cụ của 50 gia đình ngày ấy nay còn 24 cụ, hầu hết đều ở độ tuổi 80. Ðến dự tại hội trường hôm nay chỉ được 13 cụ, còn lại đều đau yếu, có cụ đang phải nằm viện".
Trong câu chuyện đầu Xuân, chúng tôi được biết, cách đây một năm, khi chi bộ bản bàn việc tổ chức kỷ niệm 50 năm Ngày bà con Hưng Mai đặt chân lên quê mới, lúc ấy còn 29 cụ, nhưng đến ngày tổ chức kỷ niệm thì năm cụ đã mất. Cảm động nhất là trường hợp cụ ông Nguyễn Văn Mạnh, nguyên Bí thư Chi bộ, Chủ nhiệm HTX đầu tiên, nằm trên giường bệnh còn hỏi về chương trình chuẩn bị buổi lễ và nói với mọi người rằng: "Tôi sẽ đợi đến ngày tổ chức, rồi mới đi được...", nhưng trước Tết Nguyên đán một tháng, cụ đã về với tổ tiên. Có lẽ vì thế, khi ban tổ chức mời các cụ lên sân khấu để con cháu tặng hoa, chúc thọ, nhận giấy chứng nhận ghi công đức sáng lập bản thì cụ bà Nguyễn Thị Hồng (vợ cụ Mạnh) không cầm được nước mắt, khiến mọi người có mặt ai cũng rơi lệ. Sau này ngồi tâm sự, Trưởng bản Nguyễn Minh Ðức cho biết: "Không ngờ, buổi lễ lại thành công đến như vậy. Ý nghĩa sâu xa không chỉ tri ân công đức các cụ, mà còn là dịp giáo dục con cháu nhớ về cội nguồn, truyền thống quê hương, giúp mọi người xích lại gần nhau hơn". Anh Ðỗ Tiến Dũng, con cụ Ðỗ Quốc Thích thì rơm rớm nước mắt, cho biết: "Ðến ngày được hưởng thành quả thì các cụ rủ nhau đi cả! Cụ ông tôi mất đã lâu, còn cụ bà ra đi đến hôm nay chưa đầy trăm ngày. Nếu cụ còn sống, dù cụ không đi được anh em chúng tôi cũng xin rước cụ lên kiệu...".
Khởi đầu bản Hưng Mai là một trong 20 đội sản xuất của bà con tỉnh Hưng Yên lên khai hoang bên đôi bờ sông Mã. Trải qua nhiều giai đoạn lịch sử chia tách, sáp nhập, với nhiều tên gọi: Hương Sơn, Sông Mai thuở ban đầu đến Hưng Nghịu, Hưng Cầu, Hưng Sơn và nay là Hưng Mai. Trong thời kỳ chiến tranh phá hoại của đế quốc Mỹ, cả bản vừa sản xuất, vừa chiến đấu, sôi sục khí thế cách mạng. Ðây là bản của bà con khai hoang có số thanh niên nhập ngũ đông nhất huyện, với 58 người trải khắp các chiến trường, trong đó có hai liệt sĩ. Vinh dự đáng nhớ là vào ngày 11-7-1965, cùng dân quân xã Nà Nghịu, bản Hưng Mai đã bắn rơi một máy bay F4 của đế quốc Mỹ. Những bức ảnh đen trắng ngày ấy được phóng to, treo trang trọng tại Nhà văn hóa bản là hình ảnh sống động nhất về một thời khai phá Phiêng Ma Lông. Với lòng quyết tâm vừa chiến đấu, vừa khai hoang sản xuất, người dân bản Hưng Mai đã biến một vùng đất nửa sình lầy, cỏ cây lau lách hoang vu rộng gần trăm héc-ta thành đất bờ xôi, ruộng mật màu mỡ. Ngày nay, một phần đất giao cho huyện làm khu trại giống, một phần ruộng san sẻ cho bà con dân tộc thiểu số tại bản Kéo và bản Nang Cầu. Việc làm đó là cái nghĩa, cái tình bởi những ngày đầu chân ướt chân ráo lên đây, bà con Hưng Mai đã được nhân dân ở đây cưu mang, giúp đỡ. Trong báo cáo tại buổi lễ, bản Hưng Mai không quên kể lại câu chuyện tình nghĩa buổi ban đầu và đã tặng quà lưu niệm đối với năm gia đình người dân tộc Thái ở bản Nang Cầu. Chúng tôi còn biết, đến nay, gần chục đôi con cháu bản Hưng Mai đã kết duyên vợ chồng cùng con cháu của bà con dân tộc sở tại. Người dân miền xuôi, miền ngược đoàn kết, nhiều hộ thành thông gia, giúp đỡ nhau sản xuất, cùng phát triển kinh tế, tạo nên sức sống mới cho vùng đất đôi bờ sông Mã này.
Thơm ngọt nhãn lồng
Ðến Sơn La hôm nay, nói đến những mô hình làm ăn kinh tế khá giả, mọi người luôn nhắc đến bà con nhân dân tỉnh Hưng Yên vùng quê sông Mã. Nơi đây nổi tiếng với nhãn lồng, đậu tương, nuôi ba ba gai, nhiều hộ nông dân có thu nhập tiền tỷ một năm.
Những ngày đầu đặt chân lên vùng đất mới, người Hưng Yên đã đưa nhiều giống cây, rau quả lên trồng. Có người bảo, trồng nhãn lồng ngoài phủ xanh đất trống, đồi núi trọc, bà con còn có ý mỗi khi nhìn thấy cây nhãn lại nhớ về quê cha đất tổ. Cách giải thích ấy nghe cũng có lý, nhưng cái lý rõ ràng là nhờ hiệu quả kinh tế của cây nhãn mang lại mà nhiều hộ gia đình đã thoát nghèo, vươn lên làm giàu. Nhãn được trồng nhiều nhất ở huyện Sông Mã vào giai đoạn từ năm 1967 đến đầu năm 1970. Theo thống kê, thời kỳ hưng thịnh nhất của nhãn lồng Sông Mã lên đến hơn 4.000 ha. Sở dĩ nhãn lồng Sông Mã ngon, có vị thơm đặc trưng là do sự kỳ công trong việc lựa chọn giống từ cây nhãn tổ ở Tiên Lãng, Khoái Châu,... Nhãn Hưng Yên trồng trên đất Sông Mã phù hợp khí hậu, thổ nhưỡng cho nên ra hoa, kết trái ngon không thua kém nhãn ở quê nhà. Vào mùa thu hoạch nhãn, cả vùng Sông Mã đông vui như ngày hội. Từ năm 1998 đến 2003, phong trào làm long nhãn phát triển, mỗi năm, Sông Mã xuất khoảng 800 nghìn tấn long nhãn. Gia đình ông Thủy, ông An ở HTX Tiên Sơn, xã Chiềng Khương; ông Bảy, ông Ngọc ở bản Hải Sơn, xã Chiềng Khoong; ông Sáng, ông Dụng ở bản Hưng Mai, xã Nà Nghịu mỗi vụ thu hàng trăm triệu đồng từ tiền bán nhãn.
Tìm hiểu về cây nhãn, anh Ðinh Xuân Thắng, người bản Hưng Mai có kinh nghiệm 10 năm làm nhãn đưa chúng tôi đến xem cây nhãn to nhất vùng ở bản Hải Sơn. Ðây là bản trù phú nằm ven bờ sông Mã, với hơn 300 hộ dân tỉnh Hưng Yên lên đây khai hoang sinh sống. Cây nhãn to nhất của gia đình ông Long, nay đã chuyển giao cho người con trai là anh Nguyễn Văn Bảy chăm sóc. Anh Thắng cho biết, năm kia, nhận thầu thu hoạch cây nhãn này được 1,7 tấn quả, năm ngoái nhãn kém hơn cũng thu 1,4 tấn. Vào mùa nhãn chín, anh Thắng thuê bốn người hái trong năm ngày mới hết quả. Nhãn ở đây quả to, bình quân 45 đến 50 quả/kg, nhiều thương lái chọn những cây quả to đều, dày cùi, đẹp mã mang về xuôi bán nhãn quả. Vào mùa nhãn chín rộ, hằng ngày có hàng trăm xe tải loại bốn đến năm tấn vào Sông Mã vận chuyển nhãn về xuôi. Mấy năm nay, long nhãn xuống giá, thu nhập của người trồng nhãn có phần bị ảnh hưởng, nhưng theo kinh nghiệm, bà con không bao giờ bỏ nhãn, kiên trì làm long, diện tích nhãn dưới 10 năm tuổi đang được tỉa cành, làm nhãn ghép, vẫn cho thu nhập cao.
Mô hình nuôi ba ba gai lại là một câu chuyện hoàn toàn khác. Ðó là nhờ may mắn một phần, còn lại là do sự nhạy bén của bà con Hưng Yên trên quê mới. Theo đánh giá của Trung tâm khuyến nông huyện, phong trào nuôi ba ba gai mới xuất hiện khoảng 10 năm trở lại đây. Ba ba gai là loài vật sống hoang dã trong rừng, được mang về nuôi, cho sinh sản, có giá trị dinh dưỡng cao hơn hẳn ba ba trơn. Quy trình sinh sản đòi hỏi kỹ thuật, điều kiện thời tiết riêng, thời gian nuôi thả mất vài ba năm cho nên giá thành cao, đem lại hiệu quả kinh tế cao. Mỗi con ba ba gai giống đẻ trứng vào khoảng giữa tháng 4 và nở cho đến tháng 7, tháng 8. Sau khi nở hơn chục ngày, ba ba giống to bằng cái nắp chai bia, bán giá từ 250 đến 300 nghìn đồng/con. Ba ba gai chỉ sống ở vùng Sông Mã và biên giới Việt Nam - Lào, mở rộng nuôi ở vùng khác chúng đẻ ít, tỷ lệ nở thấp, hiệu quả không cao. Ðặc điểm ấy trở thành một lợi thế để nhiều hộ gia đình ở Sông Mã đầu tư hàng tỷ đồng xây ao nuôi ba ba. Hiện nay, trên địa bàn huyện Sông Mã có khoảng 50 hộ nuôi ba ba gai quy mô lớn cho thu nhập từ vài trăm triệu đến hơn hai tỷ đồng/năm.
Ngoài các mô hình phát triển kinh tế nêu trên, người dân ở Hưng Mai còn thâm canh lúa ruộng năng suất cao, nuôi cá, trồng hoa, trồng rau sạch cũng cho thu nhập cao. Hưng Mai giờ đây không còn hộ đói nghèo, thu nhập bình quân 1,1 triệu đồng/khẩu/tháng. Hộ nào cũng có nhà xây kiên cố, nhiều gia đình xây nhà kiểu biệt thự, điện nước đầy đủ, đường sá đi lại thuận lợi, đời sống vật chất và tinh thần ngày một khá hơn. Có thể nói, Hưng Mai là hình ảnh thu nhỏ của gần 20 bản khác của bà con nhân dân tỉnh Hưng Yên khai hoang trên đất Sông Mã.
Có được cuộc sống sung túc như hôm nay, trước hết là nhờ chủ trương đúng đắn của Ðảng, Nhà nước vận động bà con đi xây dựng phát triển kinh tế miền núi. Dù trải qua bao khó khăn, gian khổ, bà con đi khai hoang vẫn sát cánh đoàn kết cùng bà con các dân tộc tại chỗ, chia ngọt sẻ bùi, giúp nhau cùng phát triển. Trong lịch sử phát triển 60 năm của huyện Sông Mã, có một phần đóng góp quan trọng của người dân Hưng Yên đi khai hoang phát triển kinh tế.
Trước khi chia tay, Trưởng bản Hưng Mai Nguyễn Minh Ðức khẩn khoản mãi, rồi cũng nói với chúng tôi tâm tư của bà con đi khai hoang. Rằng, nguyện ước của các cụ trước khi nhắm mắt là mong tỉnh Sơn La có những tổng kết, đánh giá, nhìn lại những thành tựu chủ trương vận động bà con miền xuôi đi khai hoang phát triển kinh tế miền núi. Nửa thế kỷ trôi qua, vui có, buồn có, hy sinh gian khổ, hạnh phúc đều trải qua, những điều ấy, lớp con cháu hôm nay cần được biết, cần ghi nhớ, để cuộc sống bên đôi bờ sông Mã như dòng chảy, tiếp tục sinh sôi, phát triển.
Bài dự thi xin gửi về địa chỉ: Ban Thư ký - Biên tập, Báo Nhân Dân, 71 Hàng Trống, quận Hoàn Kiếm, TP Hà Nội. Email: banthuky@nhandan.org.vn.