Các chuyên gia kinh tế nhận định, Việt Nam-Malaysia còn nhiều tiềm năng để thúc đẩy hơn nữa hợp tác kinh tế, thương mại, đầu tư. Nếu năm 2011, Việt Nam chỉ là đối tác thương mại thứ 14 của Malaysia với tổng kim ngạch xuất nhập khẩu đạt 7,2 tỷ USD thì đến năm 2023 tổng kim ngạch xuất nhập khẩu giữa Việt Nam-Malaysia đã tăng lên 12,67 tỷ USD. Cả hai nước đang nỗ lực hướng tới mục tiêu kim ngạch thương mại song phương đạt 25 tỷ USD vào năm 2030. Tuy nhiên, con số này vẫn còn khiêm tốn so với tiềm năng và triển vọng hợp tác rất lớn của hai nước. Malaysia là một trong những thị trường nhập khẩu có tiềm năng rất lớn của Việt Nam tại khu vực ASEAN. Theo thống kê, 4 tháng đầu năm 2024, tổng kim ngạch xuất nhập khẩu Việt Nam-Malaysia đạt 4,9 tỷ USD; trong đó, kim ngạch xuất khẩu từ Việt Nam sang Malaysia đạt 1,6 tỷ USD. Các sản phẩm xuất khẩu chủ yếu của Việt Nam sang thị trường Malaysia bao gồm máy móc thiết bị và phụ tùng; máy vi tính; điện tử và linh kiện; sắt thép các loại; xăng dầu, hóa chất... Năm 2023, tổng vốn đầu tư của Malaysia vào Việt Nam đạt hơn 442 triệu USD với gần 700 dự án, xếp thứ tám trong danh sách các nhà đầu tư nước ngoài tại Việt Nam.
Đối với Thành phố Hồ Chí Minh, kim ngạch xuất khẩu của địa phương này trong ba tháng đầu năm nay sang thị trường Malaysia ước đạt gần 179 triệu USD, tăng 77% so với cùng kỳ năm 2023. Tính đến cuối tháng 3/2024, Malaysia đã có hơn 340 dự án đầu tư vào Thành phố Hồ Chí Minh với tổng số vốn 4,9 tỷ USD, đứng thứ sáu trong tổng số 116 quốc gia và vùng lãnh thổ đầu tư vào Thành phố Hồ Chí Minh. Ông Đào Minh Chánh, Phó Giám đốc Trung tâm Xúc tiến thương mại và đầu tư Thành phố Hồ Chí Minh cho biết: Ngành công nghiệp Halal là ngành cung cấp các sản phẩm và dịch vụ hợp chuẩn cho người Hồi giáo, bao gồm thực phẩm và đồ uống, du lịch và thủy sản... Hiện, ngành công nghiệp này ngày càng phát triển, trên thế giới hiện có hơn hai tỷ người theo đạo Hồi. Đây là cơ hội để sản phẩm của Việt Nam có thể mở rộng thị trường xuất khẩu.
Cũng theo ông Đào Minh Chánh, trong năm 2024, ngành công nghiệp Halal được dự báo sẽ tiếp tục phát triển mạnh tại các thị trường châu Á, Trung Đông và châu Phi. Các xu hướng Halal năm nay sẽ góp phần định hình lại môi trường kinh doanh Halal toàn cầu, tạo ra cơ hội mới song cũng đòi hỏi các doanh nghiệp nhanh chóng thích ứng với bối cảnh mới. Với xu hướng xây dựng chuỗi giá trị Halal, thị trường Halal đang chuyển dịch từ tư duy chỉ quan tâm tới sản phẩm Halal sang xây dựng toàn bộ chuỗi cung ứng Halal. Theo đó, các tiêu chuẩn Halal cần được mở rộng kiểm soát từ nguồn gốc, xuất xứ đến nơi người tiêu dùng mua hàng như các nhà bán lẻ, nhà hàng, mua sắm trực tuyến. Cho nên, doanh nghiệp và bên cung ứng cần xây dựng thương hiệu Halal uy tín trên cơ sở chất lượng sản phẩm và chất lượng của toàn bộ chuỗi giá trị kinh doanh Halal, xây dựng lộ trình thực tế để triển khai chuỗi giá trị Halal. Với vị trí là một đô thị đặc biệt, một trung tâm lớn về kinh tế và là đầu tàu, động lực, có sức thu hút, sức lan tỏa của Vùng kinh tế trọng điểm phía nam, thành phố tiếp tục đẩy mạnh cải cách hành chính, chuyển đổi số, tạo điều kiện thuận lợi cho các nhà đầu tư kinh doanh. Thành phố cần chú trọng nghiên cứu thực hiện các chính sách, hỗ trợ cộng đồng doanh nghiệp trong và ngoài nước phát triển sản phẩm, dịch vụ mới, nâng cao năng lực cạnh tranh, mở rộng thị trường tiêu thụ, xây dựng chuỗi cung ứng xanh bền vững.
Các chuyên gia cho rằng, việc khai thác thành công thị trường Malaysia sẽ là cơ sở giúp Việt Nam mở rộng xuất khẩu sang các nước Trung Đông đầy tiềm năng, cũng như thâm nhập thị trường Halal toàn cầu. Các xu hướng Halal năm nay sẽ góp phần định hình lại môi trường kinh doanh Halal toàn cầu, điều này sẽ tạo ra cơ hội mới nhưng cũng đòi hỏi các doanh nghiệp phải nhanh chóng thích ứng. Thị trường Halal đã không ngừng phát triển để đáp ứng nhu cầu ngày càng lớn của dân số Hồi giáo trên thế giới. Dựa vào Chỉ số kinh tế Hồi giáo toàn cầu, dân số Hồi giáo được dự đoán sẽ tăng từ 1,8 tỷ người vào năm 2017 lên con số ba tỷ người vào năm 2060. Thị trường đầy tiềm năng này bao gồm rất nhiều lĩnh vực như: thực phẩm và đồ uống, tài chính, thời trang, mỹ phẩm, dược phẩm, du lịch, giải trí... Tuy nhiên, thị trường Halal luôn được xem là thị trường khó tính vì các sản phẩm luôn gắn liền với những quy định đặc thù và nghiêm ngặt của đạo Hồi. Để xuất khẩu sang thị trường này, doanh nghiệp phải có chứng nhận Halal.
Ông Firdauz Bin Othman, Tổng Lãnh sự Malaysia tại Thành phố Hồ Chí Minh chia sẻ: Riêng về mảng thực phẩm Halal, là thị trường đang phát triển với tốc độ rất nhanh, được dự báo sẽ đạt giá trị vào khoảng 4,5 nghìn tỷ USD vào năm 2030. Thị trường này được tăng trưởng bởi sự phát triển dân số Hồi giáo toàn cầu, cũng như nhu cầu về các sản phẩm đạt chứng nhận Halal. Điều này mang đến những cơ hội to lớn cho nhiều quốc gia, trong đó có Việt Nam. Nhìn thấy được triển vọng thị trường, Việt Nam rất quan tâm đến việc hỗ trợ các doanh nghiệp trong nước để có thể tiếp cận thị trường Halal toàn cầu. Rất nhiều sáng kiến và chính sách đã được đưa ra để thúc đẩy sự phát triển của ngành Halal tại Việt Nam. Malaysia với một hệ sinh thái Halal bao quát cho sự phát triển của ngành Halal. Hệ sinh thái này bao gồm hệ thống chứng nhận, tiêu chuẩn, cơ sở hạ tầng, các ưu đãi, nguồn nhân lực và hệ thống tài chính Hồi giáo, hỗ trợ bởi hiệu quả thống nhất từ các học viện của Chính phủ. Malaysia là một trong những quốc gia tiên phong trong ngành Halal, có một môi trường kinh tế thân thiện, có mức độ tín nhiệm cao về chứng nhận Halal và được chấp nhận bởi hầu hết các thị trường Hồi giáo trên toàn thế giới ■
Thị trường Halal (thị trường dành cho người Hồi giáo) có tiềm năng rất lớn về quy mô, dân số với tốc độ tăng trưởng bình quân hằng năm đạt hơn 6%. Cộng đồng người Hồi giáo hiện có khoảng 2 tỷ người. Khu vực Đông Nam Á, Nam Á, Nam Thái Bình Dương là thị trường xuất khẩu tiềm năng cho sản phẩm Halal, bởi số dân theo đạo Hồi tại các khu vực này khoảng 860 triệu người.