Thời cơ lớn
Ngoài các nguyên tắc chung áp dụng cho tất cả các loại hàng hóa, các thành viên TPP thống nhất thêm một số nguyên tắc áp dụng với hàng nông sản gồm: xóa bỏ trợ cấp xuất khẩu nông sản, cam kết về an ninh lương thực, không áp dụng tự vệ đặc biệt, thương mại đối với sản phẩm biến đổi gien. Nhìn chung, về cơ bản, hiện cơ sở pháp lý trong nước đã phù hợp với các cam kết này.
Ngoài ra, những cam kết về môi trường, về trợ cấp đánh bắt tự nhiên, chống thương mại hải sản bị khai thác trái phép… là một trong những nội dung gây nhiều bất đồng trong quá trình đàm phán TPP cũng đã được thống nhất khi các nước có thời gian ba năm kể từ khi Hiệp định có hiệu lực với từng bên để hài hòa hóa mọi chính sách liên quan. Riêng Việt Nam sẽ được gia hạn thêm hai năm nếu có cơ sở thể hiện sự cần thiết phải có thêm thời gian chuyển tiếp.
Tóm lại, mặc dù là một trong số những thành viên cuối cùng thông qua kết quả đàm phán của cấp kỹ thuật, với những nỗ lực trong nhiều năm qua, nhưng chúng ta tin tưởng rằng với môi trường pháp lý tiến bộ hiện nay, cùng với các cam kết quốc tế mà Việt Nam đã ký kết là điều kiện, hoàn cảnh tốt để Việt Nam thực thi các cam kết tiêu chuẩn cao của Hiệp định.
Đặc biệt, TPP có những cam kết về việc các thành viên được tiếp cận thị trường các nước thành viên khác. Với Việt Nam, trong số mười một đối tác thì Mỹ, Ca-na-đa, Mê-hi-cô, Pê-ru là những nước lần đầu Việt Nam đạt được thỏa thuận về thương mại tự do và có những bước cắt giảm thuế lớn. Nhật Bản là đối tác Việt Nam đã từng có hai thỏa thuận đối tác kinh tế, cũng đạt được thỏa thuận thương mại tự do đối với nhiều dòng hàng hóa mà Việt Nam có lợi ích xuất khẩu, cải thiện lớn so với hai hiệp định đối tác kinh tế trước đây. Ô-xtrây-li-a, Niu Di-lân, Ma-lai-xi-a, Xin-ga-po, Bru-nây là những đối tác của Việt Nam trong Hiệp định thương mại tự do ASEAN - Ô-xtrây-li-a - Niu Di-lân và Hiệp định ATIGA.
Với Mỹ và Ca-na-đa, Việt Nam đạt được thỏa thuận tiếp cận thị trường đáng kể với khoảng 98% và 99% kim ngạch xuất khẩu hàng hóa nông sản; 92,68% và 100% kim ngạch xuất khẩu thủy sản; 100% kim ngạch xuất khẩu gỗ được xóa bỏ thuế quan ngay khi Hiệp định có hiệu lực với Việt Nam.
Đồng thời, Việt Nam cũng phải cam kết về mở cửa thị trường nông, lâm, thủy sản của mình. Theo đó, Việt Nam áp dụng nguyên tắc một bản chào đa phương cho 11 thành viên còn lại của TPP. Trong lĩnh vực nông, lâm, ngư nghiệp, Việt Nam cam kết đưa khoảng hơn 98,3% mặt hàng vào lộ trình cam kết xóa bỏ thuế quan với các lộ trình từ xóa bỏ ngay, từ năm thứ 3, từ năm thứ 8, năm thứ 11 đến năm thứ 12 hoặc năm thứ 13 tùy sản phẩm.
“Thử lửa” ngành chăn nuôi
Trong cam kết mở cửa thị trường nông sản Việt Nam cho các thành viên TPP, một điểm được đánh giá thành công nhất của Việt Nam khi đàm phán là: chúng ta giữ được lộ trình xóa bỏ tương đối dài với hai nhóm hàng nhạy cảm là thịt lợn và thịt gà, mặc dù Việt Nam đã có cam kết mở cửa tại các Hiệp định tự do ASEAN và ASEAN+. Cụ thể, với thịt lợn thuế suất hiện tại của chúng ta là 10-15% và lộ trình cắt giảm thuế từng mặt hàng như sau: đối với thịt lợn cắt mảnh tươi, ướp lạnh, thực hiện lộ trình xóa bỏ trong 10-13 năm tùy dòng cụ thể; đối với thịt lợn cắt mảnh đông lạnh, lộ trình xóa bỏ là 8 năm, cắt giảm 1% so với thuế suất cơ sở ngay khi có hiệu lực; thịt lợn ngâm muối: lộ trình xóa bỏ 8 năm; nội tạng đỏ của lợn: lộ trình xóa bỏ 5-7 năm và sản phẩm chế biến xóa bỏ hoàn toàn trong thời gian từ 8 đến 11 năm. Trong khi với sản phẩm thịt gà, thuế suất hiện tại là 10-25% và lộ trình cắt giảm thuế đối với từng mặt hàng cụ thể như sau: thịt gà nguyên con, tươi, ướp lạnh, phụ phẩm: lộ trình xóa bỏ là 12 năm; thịt gà cắt mảnh tươi, ướp lạnh, đông lạnh: lộ trình xóa bỏ là 10-12 năm tùy dòng cụ thể và sản phẩm chế biến có lộ trình xóa bỏ từ 8 đến 11 năm.
Thoạt nhìn về hình thức, việc kéo dài lộ trình xóa bỏ các dòng thuế của hai mặt hàng nhạy cảm (thịt lợn, thịt gà) là một thành công trong đàm phán của Việt Nam. Tuy nhiên, nếu phân tích một cách kỹ lưỡng về thực tế sản xuất, kinh doanh của hai ngành hàng này thì có thể thấy rằng việc thực hiện những cam kết với các thành viên TPP là hoàn toàn không dễ dàng, nếu không muốn nói là nan giải.
Theo ông Lê Bá Lịch, Chủ tịch Hiệp hội Thức ăn chăn nuôi Việt Nam, một trong những sản phẩm chịu thiệt thòi nhất chính là sản phẩm của ngành chăn nuôi được nhắc tới rất nhiều trong thời gian qua. Hiện tại, đối với lợn, gà, thuế nhập khẩu vào Việt Nam cao, nên khi TPP có hiệu lực, chúng ta sẽ phải chịu sức cạnh tranh lớn từ Mỹ và Ca-na-đa. Đặc biệt, đối với thịt bò đông lạnh (thuế suất 7%), bò sống (5%), chúng ta phải cạnh tranh với các nước Ô-xtrây-li-a và Niu Di-lân có lợi thế về bò. Còn đối với thức ăn chăn nuôi, theo ông Lịch thì hiện thuế suất đã rất thấp nên chúng ta cũng không được hưởng lợi nhiều từ việc giảm chi phí sản xuất.
Trao đổi ý kiến với chúng tôi, ông Bùi Trần Tuấn - đại diện của Công ty cổ phần phát triển công nghệ nông thôn RTD phân tích một cách cụ thể: Ngành chăn nuôi chúng ta tham gia TPP với “gia tài” là hệ thống chuồng trại nhỏ lẻ. Trong số hơn 4.000 hộ chăn nuôi lợn tại Việt Nam, thì số hộ nuôi quy mô nhỏ (dưới 10 con/hộ) chiếm hơn 85%. Tương tự như vậy, số hộ nuôi quy mô dưới 100 con chiếm gần 70%. Chăn nuôi nông hộ theo quy mô nhỏ thường chịu rủi ro rất lớn về dịch bệnh. Chưa hết, chất lượng đàn giống của Việt Nam chưa đạt yêu cầu, chăn nuôi lợn mới đạt 17 - 20 con cai sữa/nái/năm. Trong khi đó, năng suất sinh sản lợn của Mỹ (cạnh tranh chính với chúng ta trong TPP) là 27 - 28 con cai sữa/nái/năm. Hơn nữa, có quá nhiều khâu trung gian trong phân phối sản phẩm là không cần thiết, đây chính là yếu tố khiến chúng ta khó cạnh tranh vì giá nông sản bị đẩy lên cao khi phải qua 5 - 7 khâu trung gian kiếm lời bằng cách mua đi bán lại. Việc phải qua nhiều trung gian (trong khi ở nước ngoài chỉ 1 - 2 khâu trung gian) cũng làm cho sản phẩm có thời gian bị “giữ chân” quá lâu trước khi đến tay người tiêu dùng. Đây là những bất cập lớn, nếu không nhanh chóng khắc phục, kết cục “thua trên sân nhà” của các sản phẩm này là có thể tiên liệu được.
Theo kết quả đàm phán, việc mở cửa thị trường trong một số lĩnh vực nông nghiệp của Việt Nam sẽ được thực hiện theo lộ trình phù hợp để hỗ trợ cho tiến trình cơ cấu lại ngành nông nghiệp. Theo đó, giải pháp chủ yếu của chúng ta là kéo dãn lộ trình giảm thuế để có thời gian tái cơ cấu sản xuất trong nước, thúc đẩy đầu tư quy mô lớn và áp dụng công nghệ cao để nâng dần sức cạnh tranh. Theo hướng đó, lộ trình cần được sử dụng một cách chủ động, hiệu quả, tránh tình trạng ỷ lại vào lộ trình, dẫn đến chậm đổi mới và từ đó là bị động, lúng túng khi thách thức đến.
Chăn nuôi ở Việt Nam có năng suất quá thấp: quy mô nhỏ lẻ, chất lượng con giống thấp, công nghệ chăn nuôi lạc hậu, chi phí đầu vào cao, dịch bệnh thường xuyên đe dọa, liên kết chuỗi trong chăn nuôi yếu, quá nhiều khâu trung gian… đã khiến giá thành thịt, trứng, sữa và các nông sản khác “đội giá” lên tới 9 - 11%. Rất khó cạnh tranh khi ở Mỹ, một lao động có thể “quản lý” quy mô 1.000 lợn nái (trong khi ở Việt Nam phải cần tới 15 - 20 lao động).