Cải cách để thúc đẩy tăng trưởng
Trong tầm nhìn dài hạn, hướng tới một quốc gia thịnh vượng, sáng tạo, công bằng và dân chủ, khát vọng đạt mức thu nhập trung bình cao vào năm 2030 là một đòi hỏi rất lớn. Ðể đạt được mục tiêu này, lợi thế nông nghiệp là một ưu thế cần được tận dụng trong hội nhập sâu vào nền kinh tế toàn cầu. Chuỗi số liệu thống kê về tăng trưởng GDP, tỷ lệ tăng tổng sản phẩm nông nghiệp và kim ngạch xuất khẩu nông sản từ những năm khởi đầu đổi mới đến nay cho thấy, nông nghiệp đã trở thành cứu cánh của nền kinh tế trước những khó khăn, biến động khó lường khi hội nhập vào nền kinh tế toàn cầu.
Những năm sản xuất nông nghiệp tăng cao đã tạo thuận lợi để tăng trưởng toàn bộ nền kinh tế. Ngược lại, nhiều năm nông nghiệp khó khăn, sản xuất suy giảm; nền kinh tế đã phải gánh chịu nhiều hệ lụy, mức tăng trưởng suy giảm và phát sinh nhiều vấn đề tiêu cực xã hội.
Mặc dù có nhiều thành công, song chất lượng, tính bền vững của tăng trưởng nông nghiệp và phương thức phát triển đang còn nhiều hạn chế. Tỷ suất lợi nhuận trong nông nghiệp thấp, tình trạng thiếu việc làm ở nông thôn còn phổ biến; chất lượng nông sản, vệ sinh an toàn thực phẩm và giá trị bổ sung dinh dưỡng chưa cao; đặc biệt, trình độ đổi mới sáng tạo công nghệ và thể chế còn nhiều giới hạn. Phát triển nông nghiệp đã gây tổn hại môi trường như tàn phá rừng, làm suy giảm đa dạng sinh học, thoái hóa đất đai, ô nhiễm nguồn nước và phát thải nhiều khí nhà kính. Ở nhiều địa phương, tăng trưởng nông nghiệp còn dựa vào gia tăng diện tích đất nông nghiệp, thâm dụng tài nguyên thiên nhiên, lạm dụng phân hóa học và thuốc trừ sâu độc hại, khiến chi phí đầu vào của sản xuất ngày càng cao và làm gia tăng chi phí bảo vệ môi trường.
Nhằm ứng phó kịp thời với hiểm họa thiên tai, rất cần sự lãnh đạo bảo đảm sao cho những dự báo về ảnh hưởng của biến đổi khí hậu được lồng ghép đầy đủ vào quá trình hoạch định chính sách, dành những ưu tiên cho các giải pháp đầu tư xanh và thông minh trong cải thiện hiệu quả sử dụng tài nguyên thiên nhiên và phát huy tối đa thế mạnh của hệ sinh thái đặc thù.
Thách thức phát triển mới
Năm 2020, nông nghiệp nước ta gặp nhiều khó khăn do biến đổi khí hậu, hiện tượng thời tiết cực đoan, thị trường nông sản thế giới suy giảm và các rủi ro như vậy được dự báo sẽ còn diễn ra trong thời gian tới. Trong chín tháng đầu năm 2020, đại dịch Covid-19 đã tác động bất lợi đến tăng trưởng kinh tế, thị trường, lao động việc làm, thu nhập, an sinh xã hội ở khu vực nông thôn và đặc biệt tác động tiêu cực tới các chuỗi cung ứng nông sản, nhất là xuất khẩu nông sản.
Các chuỗi cung ứng nông sản thực phẩm từ nông thôn bị đứt gãy, nhất là các chuỗi dài và xuất khẩu. Trong thời gian đại dịch Covid-19 diễn ra, nhiều nước bị khủng hoảng hoặc thiếu lương thực. Nhờ vào kinh nghiệm chống hạn, mặn rút ra từ những năm trước, sản lượng lúa thu hoạch của nước ta vẫn gia tăng, chăn nuôi bước đầu phục hồi, thủy sản và lâm nghiệp tăng khá, giúp ngành nông nghiệp phục hồi ngay trong đại dịch. Nông nghiệp Việt Nam đã bảo đảm được an ninh lương thực và trở thành trụ đỡ của nền kinh tế. Ðây là yếu tố quan trọng tạo sự ổn định của Việt Nam trong đại dịch Covid-19.
Như vậy, nền nông nghiệp trong thời gian tới cần được đầu tư theo hướng nông nghiệp sinh thái để tăng tính chống chịu với các rủi ro khí hậu và phi khí hậu cũng như phát triển bền vững. Nông nghiệp phát triển dựa trên các tiến bộ khoa học - công nghệ mang tính sinh thái cho phép đa dạng hóa sản phẩm, vừa bảo đảm tăng trưởng, vừa bảo vệ được các tài nguyên tự nhiên như đất, nước, rừng, đa dạng sinh học, giúp thích ứng và giảm thiểu biến đổi khí hậu.
Hiện đại hóa nông nghiệp
Trên thế giới có xu hướng thực hiện chiến lược kinh tế xanh, kinh tế tuần hoàn và kinh tế chia sẻ nhằm đạt được các mục tiêu phát triển bền vững. Ở Việt Nam, về mục tiêu của ngành nông nghiệp, vẫn cần thiết đảm bảo mục tiêu ổn định an ninh lương thực cho 100% hộ dân, bao gồm cả an ninh dinh dưỡng và an toàn thực phẩm. Chương trình hành động Không còn nạn đói cần được triển khai có hiệu quả với mô hình nông nghiệp bảo đảm dinh dưỡng cho các vùng khó khăn.
Nông nghiệp của nước ta trong giai đoạn vừa qua chủ yếu tăng trưởng dựa trên thâm canh hóa học, sử dụng thừa thãi phân hóa học và thuốc trừ sâu gây thoái hóa môi trường đất và nước, và năng suất đã đến tới hạn.
Ngành nông nghiệp Việt Nam đang đứng trước một số thách thức như quá trình thâm canh nông nghiệp hiện tại đang dẫn đến việc giảm đa dạng về cảnh quan nông nghiệp, suy thoái đất đai và suy giảm đa dạng sinh học, tăng rủi ro sức khỏe cho nông dân và người tiêu dùng. Năng suất và lợi nhuận nông nghiệp ngày càng dễ bị tổn thương trước biến đổi khí hậu. Quản lý bền vững độ phì của đất và sức khỏe của đất để duy trì năng suất là một thách thức. Các giải pháp về nông nghiệp sinh thái đã được phát triển để ứng phó những thách thức này.
Nền nông nghiệp hiện đại của thế kỷ 21 là một nền nông nghiệp sinh thái thông minh dựa trên ứng dụng các ứng dụng đổi mới sáng tạo của nông nghiệp sinh thái, kết hợp các phương thức quản trị thông minh chính xác áp dụng công nghệ số nhằm sản xuất ra nhiều sản phẩm hơn trong điều kiện tiết kiệm nguồn lợi hơn.
Các mô hình sản xuất nông nghiệp sinh thái (như nông nghiệp bảo tồn, nông lâm kết hợp, nông nghiệp cảnh quan, thâm canh lúa bền vững, hệ thống tổng hợp chăn nuôi và trồng trọt, canh tác hữu cơ...) là những giải pháp chính để thâm canh nông nghiệp dài hạn, hạn chế chuyển đổi rừng sang đất trồng trọt, hạn chế sử dụng vật tư (phân bón, thuốc trừ sâu), giảm thiểu khí thải nhà kính từ nông nghiệp và góp phần tăng lưu trữ carbon. Việc chuyển đổi sang nông nghiệp sinh thái cũng sẽ góp phần đa dạng hóa cây trồng, nâng cao năng lực của nông dân trong việc bảo đảm an ninh lương thực, cung ứng sản phẩm an toàn thực phẩm và tăng cường đa dạng sinh học nông nghiệp, cải thiện khả năng phục hồi của hệ thống sản xuất trước biến đổi khí hậu, góp phần giúp Việt Nam thực hiện các cam kết quốc tế về thích ứng và giảm thiểu biến đổi khí hậu.
Bên cạnh đó, các rủi ro về thị trường trong quá trình hội nhập khiến chúng ta xem xét lại chiến lược tái cơ cấu thị trường, mở ra các thị trường mới bảo đảm tính ổn định, tận dụng tốt lợi thế của các hiệp định thương mại. Nông sản của Việt Nam đã tham gia vào chuỗi giá trị toàn cầu nhưng mới chỉ dừng lại ở việc cung cấp nông sản thô, trong khi giá trị gia tăng đối với hàng nông sản lại chủ yếu do khâu chế biến, bao gói và hoạt động thương mại. Thời điểm hiện nay chính là cơ hội để đầu tư nâng cấp các chuỗi giá trị nông sản an toàn bền vững hơn như xây dựng vùng sản xuất theo tiêu chuẩn, đầu tư công nghệ sau thu hoạch hay chế biến và áp dụng công nghệ IoT và blockchain trong truy xuất thông tin và nguồn gốc sản phẩm. Các định hướng giải pháp cần tập trung vào: (i) phát triển nâng cấp các chuỗi giá trị trong nước và chế biến, (ii) xuất khẩu đa dạng hóa thị trường chất lượng cao, thúc đẩy thương mại nông sản chính ngạch. Các doanh nghiệp cần thay đổi tư duy thị trường trong nước là chất lượng thấp. Về chiến lược, sau đại dịch là cơ hội để Việt Nam khẳng định vị thế trong các chuỗi giá trị toàn cầu, nâng cấp các chuỗi giá trị nông sản thực phẩm, bảo đảm an toàn thực phẩm theo tiêu chuẩn của các nước nhập khẩu. Với các thị trường cao cấp có FTA thì chiến lược đa dạng sản phẩm địa phương, bản địa như Chỉ dẫn địa lý, mỗi xã, phường một sản phẩm (OCOP), sản phẩm hữu cơ, để gia tăng giá trị và thương hiệu cho nông sản Việt là hướng ưu tiên. Trong quá trình này các chính sách hỗ trợ của nhà nước như liên kết, phát triển các hợp tác xã, đầu tư cho công nghệ sau thu hoạch được triển khai có hiệu quả, hỗ trợ cho doanh nghiệp, hợp tác xã và hộ nông dân là hết sức cần thiết.
Tóm lại để chuyển đổi được nền nông nghiệp hiện trạng sang một nền nông nghiệp sinh thái hiện đại cần sự điều hành của nhà nước và đầu tư của xã hội. Dự thảo Báo cáo chính trị của Ban Chấp hành Trung ương Ðảng khóa XII trình Ðại hội XIII của Ðảng, mục III, tiểu mục 2, phần viết về nông nghiệp có thể xem xét, bổ sung. Chúng tôi đề xuất phương án cụ thể là: "Phát triển nền nông nghiệp sinh thái (nông lâm kết hợp, hữu cơ, nông nghiệp thông minh với khí hậu, nông nghiệp bảo tồn,...), sản xuất hàng hóa hiện đại, thân thiện với môi trường, ứng dụng công nghệ phù hợp trong các khâu của chuỗi giá trị nông sản kết hợp với các phương thức quản trị hiện đại áp dụng công nghệ số, phát huy tiềm năng lợi thế của các vùng miền để bảo đảm sức cạnh tranh, an toàn thực phẩm, thích ứng và giảm thiểu biến đổi khí hậu và các rủi ro phi khí hậu. Gắn kết chặt chẽ giữa nông nghiệp với bảo quản, chế biến và tiêu dùng theo chuỗi giá trị, xây dựng thương hiệu nông sản thực phẩm, kết hợp với du lịch nông thôn và bảo vệ môi trường nông thôn. Phát triển kết cấu hạ tầng đồng bộ phục vụ chuỗi giá trị nông sản, kết nối nông thôn - đô thị, quản trị nông thôn hiện đại thông qua ứng dụng công nghệ số, đẩy mạnh xây dựng nông thôn mới bền vững. Chương trình xây dựng nông thôn mới cần được hoàn thiện theo hướng: Nông nghiệp sinh thái; Nông thôn hiện đại; Nông dân văn minh".
PGS, TS Ðào Thế Anh, TS Lê Thành Ý, PGS, TS Chu Tiến Quang
(Hội Khoa học phát triển nông thôn Việt Nam - PHANO)