Nhiệm vụ xuyên suốt qua 60 năm xây dựng và trưởng thành
Trước tiên, nhắc đến nghiên cứu phát triển và ứng dụng khoa học công nghệ (KHCN) tại Petrovietnam, phải khẳng định, đây là một nhiệm vụ xuyên suốt trong quá trình hình thành và phát triển của Tập đoàn, luôn được Đảng và Chính phủ nhấn mạnh đối với ngành Dầu khí. Gần đây nhất trong Nghị quyết 41-NQ/TW ngày 23-7-2015 của Bộ Chính trị về định hướng “Chiến lược phát triển ngành Dầu khí Việt Nam đến năm 2025, tầm nhìn đến năm 2035”, cũng như Nghị quyết 55-NQ/TW ngày 11-2-2020 của Bộ Chính trị về định hướng “Chiến lược phát triển năng lượng quốc gia của Việt Nam đến năm 2030, tầm nhìn đến năm 2045” đều nhấn mạnh: Petrovietnam phải tăng cường áp dụng tiến bộ về khoa học, công nghệ trong công tác tìm kiếm, gia tăng trữ lượng dầu mỏ, sản xuất kinh doanh dầu khí, điện, đạm, năng lượng mới (dầu đá phiến, khí hydrate, khí hydro…) bảo đảm an ninh năng lượng quốc gia.
Trong mục tiêu tổng quát Chiến lược phát triển của Tập đoàn Dầu khí Quốc gia Việt Nam đặc biệt nhấn mạnh việc cần phải xây dựng tiềm lực KHCN mạnh bằng những giải pháp đột phá. Đây được xem là động lực và nền tảng để Tập đoàn tăng tốc phát triển và phát triển bền vững.
Qua 60 năm xây dựng và trưởng thành, Petrovietnam đã không ngừng nâng cao tiềm lực nghiên cứu và ứng dụng KHCN, chủ động tiếp thu kỹ thuật, công nghệ tiên tiến và phát huy sáng tạo, tối ưu hiệu quả công nghệ hiện có để đạt trình độ ngang bằng với các công ty dầu khí trong khu vực và trên thế giới. Hàng trăm giải thưởng đã được trao tặng cho các thành tựu về KHCN của ngành Dầu khí, trong đó có những giải thưởng cao quý như: Năm Giải thưởng Hồ Chí Minh và Giải thưởng Nhà nước về KHCN, nhiều giải thưởng VIFOTECH… Và trong năm nay, tiếp tục sáu công trình, dự án tiêu biểu nhất cũng được Bộ Công thương đề cử xét trao Giải thưởng Hồ Chí Minh và Giải thưởng Nhà nước về KHCN.
Được sự quan tâm của Đảng và Nhà nước, những người Dầu khí làm nên các công trình khoa học ứng dụng đã miệt mài trong nhiều năm, vừa làm chuyên môn vừa tìm tòi nghiên cứu, thử nghiệm. Đơn cử như Cụm Công trình KH và CN “Nghiên cứu phát triển công nghệ thiết kế, thi công, lắp đặt các công trình dầu khí biển siêu trường, siêu trọng phù hợp điều kiện Việt Nam" được triển khai và hoàn thành sau hơn 10 năm; nghiên cứu ứng dụng các giải pháp công nghệ trong thu gom, xử lý và sử dụng khí đồng hành ở các mỏ của Liên doanh Việt - Nga Vietsovpetro và các mỏ lân cận được thực hiện và triển khai liên tục trong 25 năm...; hệ thống trạm đo carota tổng hợp xách tay TBM-02 được nghiên cứu chế tạo trong 21 năm; các giải pháp ứng dụng khoa học công nghệ tối ưu hóa quá trình sản xuất của Nhà máy lọc dầu Dung Quất được nghiên cứu và hoàn thành trong 12 năm…
Thành công của “con nhà nghèo”
Thông thường, khi nghe về những con số lợi ích, thành tựu của các công trình khoa học nêu trên đem lại đối với ngành Dầu khí cũng như đối với đất nước, sẽ dễ bỏ qua yếu tố khởi đầu nan… Thí dụ: Giải pháp sớm đưa khí đồng hành tại các mỏ dầu ngoài khơi về bờ đem lại lợi nhuận, phát điện tới hàng chục nghìn tỷ đồng cho khu vực Đông Nam Bộ; hệ thống trạm đo carota tổng hợp xách tay TBM-02 làm lợi được khoảng 2.636 tỷ đồng; hay các giải pháp ứng dụng khoa học công nghệ tối ưu hóa quá trình sản xuất của Nhà máy Lọc dầu Dung Quất đã làm lợi khoảng 4.270 tỷ đồng… Nhưng có một điều khá đặc biệt trong công tác nghiên cứu, ứng dụng KHCN tại Petrovietnam, trong thực tế, ít người biết rằng khởi đầu của các công trình khoa học này người Dầu khí đều bắt tay vào thực hiện với tâm thế của “con nhà nghèo”.
Thành công của KHCN Petrovietnam không thể không kể đến Cụm công trình “Nghiên cứu ứng dụng các giải pháp công nghệ trong thu gom, xử lý và sử dụng khí đồng hành ở các mỏ của Liên doanh Việt - Nga Vietsovpetro và các mỏ lân cận” cũng bắt đầu từ năm đầu tiên của thập niên 90. Khi đó, Liên doanh Vietsovpetro mới khai thác được dầu tại Bạch Hổ, nhưng công nghệ thời đó chỉ khai thác dầu, còn khí đồng hành phải đốt bỏ. Trong khi đó, đất nước đang thiếu điện trầm trọng để phát triển kinh tế. Thực tế đó đã thôi thúc các cán bộ, kỹ sư của Vietsovpetro nghiên cứu và thực hiện thu gom khí, vận chuyển, chế biến đưa khí đồng hành vào bờ để phát điện, sản xuất phân đạm. Kết quả năm 1995, sau khai thác dầu, bằng những giải pháp khoa học công nghệ đột phá, trong điều kiện thiếu thốn cơ sở vật chất, Vietsovpetro lại tiên phong đưa khí đồng hành từ mỏ Bạch Hổ vào bờ, tạo nên bước nhảy vọt của ngành Dầu khí Việt Nam, tạo nền tảng cho phát triển công nghiệp khí hiện đại.
Câu chuyện nghiên cứu chế tạo hệ thống trạm đo carota tổng hợp xách tay TBM-02 cũng là một dấu ấn KHCN của Petrovietnam. Từ những năm đầu thập niên 90, ngay khi chúng ta xuất khẩu được những tấn dầu đầu tiên, thu về những đồng ngoại tệ mạnh cho đất nước cũng là lúc cán bộ công nhân viên Vietsovpetro đã nhận ra phải học bằng được công nghệ thăm dò khai thác dầu khí của nước bạn Liên Xô, cũng như san bằng độ chênh về công nghệ giữa Liên doanh và các nước tư bản.
Theo ông Nguyễn Xuân Quang, Giám đốc Xí nghiệp Khoan & Sửa giếng Vietsovpetro, ngành Dầu khí Việt Nam đến những năm thập niên 90 của thế kỷ 20 hoàn toàn phụ thuộc vào công nghệ của Liên Xô từ trang thiết bị đến đào tạo. Trong giai đoạn đó, công nghệ địa vật lý giếng khoan tại Vietsovpetro nói riêng đều là kỹ thuật tương tự, xử lý minh giải thủ công nên không đạt được chất lượng có thể cạnh tranh quốc tế, do thời gian từ lúc đo đến ra kết luận phải mất hàng tháng, trong khi các nước phát triển đang làm dịch vụ tại Việt Nam chỉ mất dưới một tuần.
Bởi vậy, để không bị đào thải khỏi cuộc chơi dịch vụ dầu khí, các cán bộ Xí nghiệp Địa vật lý Giếng khoan Vietsovpetro đã nỗ lực tự tìm tòi học hỏi sáng tạo nên cái mới, cái ưu việt hơn về công nghệ. Trong những năm đó, các chuyên gia, kỹ sư Vietsovpetro đã nhặt nhạnh cả các thiết bị thuộc dạng “không thể sửa chữa, không thể tìm mua” để mổ xẻ, nghiên cứu, rồi tích hợp những tính năng ưu việt nhất của chúng và chế tạo ra một Trạm đo carota tổng hợp có giá thành chỉ 5.000 USD, bằng chưa đầy 10% so với giá thiết bị tương tự nếu phải nhập khẩu từ nước ngoài. Đặc biệt ấn tượng với từ “xách tay” trong việc công trình nghiên cứu chế tạo này, bởi nó rất đời thường, có hình ảnh rất cụ thể và quen thuộc đối với người dầu khí nói chung và những nhà địa vật lý nói riêng. Bởi thực tế, thiết bị của một trạm đo của Nga trước đây, cùng các thiết bị phối hợp tương ứng có khối lượng và trọng lượng lên đến cả trăm kilogam thì nay, các kỹ sư của Vietsovpetro đã chế tạo ra một trạm đo tổng hợp có thể minh giải tài liệu địa vật lý, đo đạc các tầng móng đá nứt nẻ chứa dầu… chỉ nặng chưa đến 10 kg, nhỏ gọn như một máy tính cá nhân. Và đây cũng chính là thiết bị nhỏ gọn và có nhiều tính năng ưu việt nhất trên thế giới hiện nay khi so sánh với cả các sản phẩm của các nhà chế tạo thiết bị dầu khí hàng đầu thế giới như Haliburton (Mỹ), Huangding (Trung Quốc)…
Năm 2009, được sự tin tưởng và ủng hộ của Chính phủ, Tập đoàn, Công ty Điều hành Dầu khí Biển Đông (BIENDONG POC) được giao trọng trách nghiên cứu, triển khai thực hiện công tác thi công chế tạo các công trình lớn của dự án Biển Đông 1. Trong đó, khối thượng tầng nặng 12.500 tấn và khối chân đế nặng 11.500 tấn của giàn công nghệ trung tâm và nhà ở Hải Thạch (PQP-HT) là các công trình có khối lượng vượt gấp nhiều lần các công trình đã từng thực hiện trước đó tại Việt Nam. Đây là nhiệm vụ mà các chuyên gia giám sát, tư vấn quốc tế cho rằng bất khả thi.
Tuy nhiên, Công ty Dịch vụ Cơ khí hàng hải PTSC (PTSC & MC) - đơn vị được giao trọng trách - tưởng chừng như bị dồn vào chân tường khi xuất phát gần như là con số không, đã vượt qua khó khăn nhiều mặt về nguồn lực, về cơ sở hạ tầng, thách thức về tiến độ để hoàn thành dự án sau đúng hai năm. Đến nay, với việc nghiên cứu hoàn thiện và ứng dụng Cụm công trình KHCN, thực hiện thành công thiết kế, thi công, chế tạo và lắp đặt giàn khoan siêu trường siêu trọng, PTSC&MC đã trở thành nhà thầu EPCI (xây dựng, lắp đặt, vận hành và chuyển giao) quốc tế duy nhất của Việt Nam vươn ra thị trường thế giới, được chủ đầu tư các quốc gia như Ấn Độ, Nhật Bản, Ghana, Quatar… tin tưởng, giao thầu các dự án có giá trị lên tới hơn 600 triệu USD.
Còn nhớ, khi Nhà máy Lọc dầu Dung Quất - nhà máy lọc dầu đầu tiên của Việt Nam bắt đầu vận hành, đội ngũ kỹ sư, cán bộ của Nhà máy đều thuộc dạng học việc nên va vấp, sự cố là không thể tránh khỏi. Bởi vậy, chất lượng sản phẩm ban đầu của Nhà máy cũng trong tình trạng “phập phù”. Khi đó, Petrovietnam đã xác định, để nâng cao chất lượng vận hành nhà máy là một quá trình bền bỉ và lâu dài. Theo đó, cải tiến, sáng tạo ngay trong thực tế sản xuất vận hành nhà máy đã trở thành hành động thường xuyên liên tục. Dù những năm đầu kết quả sản xuất kinh doanh của NMLD Dung Quất không cao nhưng Tập đoàn vẫn tin tưởng đội ngũ cán bộ, kỹ sư trẻ sẽ nỗ lực nâng cao chất lượng vận hành nhà máy. Và suốt 12 năm qua, hơn 30 giải pháp, sáng kiến đã hoàn thiện, nâng công suất nhà máy vượt thiết kế, bảo đảm chất lượng sản phẩm lên mức cao nhất. Nếu cứ phải căn cứ kết quả kinh doanh, rồi xin phép trích từ lợi nhuận ra một phần tiền để xây dựng Quỹ Nghiên cứu khoa học của đơn vị, để từ đó có tài chính để đầu tư ứng dụng các giải pháp nâng cao chất lượng vận hành… theo đúng quy trình, thì không biết đến bao giờ NMLD Dung Quất mới vận hành ổn định được chứ chưa nói đến vận hành hiệu quả như hiện nay.
Động lực và nền tảng để phát triển bền vững
Nhận thức đúng đã tạo sự gắn kết KHCN với công nghiệp dầu khí, thúc đẩy sự hình thành và triển khai các công trình nghiên cứu khoa học, đổi mới công nghệ, gắn kết nghiên cứu với ứng dụng thành tựu KHCN trong hoạt động sản xuất kinh doanh tại Petrovietnam.
Hiện nay KHCN đã được áp dụng ở tất cả các lĩnh vực hoạt động sản xuất kinh doanh của Tập đoàn, đặc biệt các nghiên cứu tập trung vào các hướng chuyên môn, chuyên ngành. Công tác nghiên cứu điều tra cơ bản về dầu khí được Tập đoàn chú trọng triển khai tích cực và kết quả nghiên cứu được coi là cơ sở khoa học tin cậy, có ý nghĩa quan trọng trong việc xây dựng chiến lược phát triển dài hạn của Tập đoàn, giúp đưa ra quyết sách, chủ trương đúng đắn trong hoạt động sản xuất kinh doanh; ngoài ra còn giúp các Bộ, ngành quy hoạch phát triển kinh tế đất nước. Công tác nghiên cứu điều tra cơ bản còn mang tính dẫn dắt, mở ra các hướng nghiên cứu chuyên sâu tiếp theo, các hướng nghiên cứu mới trong công tác tìm kiếm các loại dầu khí phi truyền thống như khí than, khí sét, khí hydrate…
Các hoạt động khuyến khích tham gia vào nghiên cứu khoa học và phát triển công nghệ cũng được Petrovietnam tổ chức dưới nhiều hình thức phong phú như các hội thi sáng tạo; vinh danh xứng đáng các công trình sáng kiến, sáng chế; tổ chức các hội nghị, hội thảo KHCN trong nước và quốc tế; mở các diễn đàn để trao đổi, chia sẻ thông tin, kinh nghiệm và giải pháp quản lý…
Công nghệ là cơ sở của nền công nghiệp. Công nghệ và quản lý công nghệ được coi là công cụ biến đổi mạnh mẽ nhất ở cả những nước phát triển và đang phát triển. Việc xây dựng năng lực quản lý công nghệ, nhân tố chính của tiềm lực công nghệ, có tầm quan trọng sống còn đối với một tập đoàn kinh tế kỹ thuật như Petrovietnam. Điều này làm tăng tốc độ của quá trình tiếp thu, đồng hoá, phổ biến công nghệ nhập, tăng được khả năng lựa chọn công nghệ một cách độc lập, giúp hoàn thiện và cải tiến các kỹ thuật đã được chọn và dần dần tạo ra được các công nghệ nội sinh, yếu tố cần thiết để tạo nên thành công.
Có thể thấy rằng, việc nghiên cứu, phát triển, đề xuất và áp dụng thành công các giải pháp khoa học và công nghệ dầu khí không những mang lại hiệu quả kinh tế to lớn cho quốc gia, mà còn có những đóng góp quan trọng cho nền khoa học dầu khí của Việt Nam và thế giới. Hơn thế nữa, đó chính là những minh chứng hùng hồn về khả năng sáng tạo không ngừng của người Việt nói chung và người dầu khí nói riêng - những người luôn xứng đáng khi được trao gửi niềm tin để biến những điều không thể thành có thể.
Nhân kỷ niệm Ngày Khoa học và Công nghệ Việt Nam lần thứ 8 (18-5-2014 - 18-5-2021), Bí thư Đảng uỷ, Chủ tịch HĐTV Petrovietnam Hoàng Quốc Vượng đã có thư gửi tới các tập thể, cá nhân, các thế hệ cán bộ nghiên cứu và quản lý Khoa học Công nghệ (KHCN), những người tham gia các hoạt động nghiên cứu KHCN trong toàn Tập đoàn. Trong thư có đoạn nhấn mạnh: Năm 2021, Tập đoàn bắt đầu triển khai thực hiện kế hoạch nghiên cứu khoa học giai đoạn 2021-2025, với những chương trình KHCN trọng điểm, mang tính đột phá. Đây sẽ là cơ sở nền tảng để phát triển sản phẩm, dịch vụ chủ lực, mang thương hiệu Dầu khí Việt Nam có sức cạnh tranh trên thị trường trong nước và quốc tế.
Chủ tịch HĐTV cũng yêu cầu, trong bối cảnh hiện nay, các đơn vị cần tập trung nguồn lực thực hiện kế hoạch KHCN có trọng tâm, trọng điểm; đồng thời mong muốn đội ngũ cán bộ nghiên cứu và quản lý KHCN trong toàn Tập đoàn nỗ lực hơn nữa, không ngừng đổi mới sáng tạo, kịp thời nắm bắt, tích cực ứng dụng các thành tựu của cuộc cách mạng công nghiệp 4.0 vào hoạt động sản xuất kinh doanh của Tập đoàn cũng như các đơn vị, phát huy hơn nữa vai trò KHCN, tạo ra những giải pháp đột phá, góp phần vào sự phát triển ổn định và bền vững của Tập đoàn Dầu khí Quốc gia Việt Nam.