Paro, robot trị liệu Nhật Bản lần đầu tiên đến Việt Nam

Phóng viên Nhân Dân điện tử có cuộc trò chuyện với TS Shibata, sau chương trình giao lưu và biểu diễn thú vị về hai robot Paro với hàng trăm sinh viên Đại học Bách Khoa Hà Nội, chương trình do Trung tâm giao lưu văn hóa Nhật Bản tại Việt Nam tổ chức. 

P.V: Hai con robot Paro này hoạt động ra sao, thưa ông?

TS Shibata: Robot được sáng chế có hình con hải cẩu, được chúng tôi đặt là Paro. Paro có trọng lượng thiết kế mỗi con chỉ 2,7 kg, nặng như một trẻ sơ sinh. Bên trong robot có chip 3 bit và được bố trí các bộ phận cảm ứng. Đó là bộ phận nhận biết âm thanh, bộ phận cảm ứng nhận biết ánh sáng và bóng đêm, cảm ứng về tư thế. Paro có thể biểu hiện những trạng thái cảm xúc như bất ngờ, vui sướng hay giận dữ.

Tiếng kêu của Paro phát ra tương ứng với các kích thích bên ngoài lên cơ thể của nó, hoặc trong từng thời điểm trong ngày. Tiếng kêu sẽ thể hiện tâm trạng khác nhau của Paro. Ngoài ra, còn có các bộ phận giúp robot nhận được môi trường bên ngoài. Bên cạnh khả năng cảm ứng, robot có thể có khả năng học tập, nhớ tên để có những phản xạ tương ứng. Paro có thể thường hoạt động vào ban ngày và đi ngủ vào ban đêm. Năng lượng của robot được cung cấp qua bộ phận nạp điện. Bên trong có nạp 2 pin được sử dụng trong khỏang một năm rưỡi.

P.V: Paro hải cẩu thật sự rất dễ thương nhưng tại sao đó không phải là một con mèo hay một con cún?

TS Shibata: Trước khi quyết định chế tạo robot hải cẩu, tôi đã sang Canada tìm hiểu kỹ lưỡng về hải cẩu. Tôi cũng từng thử thiết kế hình dáng của mèo hay cún con nhưng mẫu giống hải cẩu có nhiều ưu điểm hơn. Hải cẩu là con vật ít có cơ hội gặp, nên thiết kế giống dáng của hải cẩu thì không chỉ dễ thương, mà còn độc đáo.

Robot Paro trị liệu mới mẻ và lạ lẫm với giới trẻ.

Chế tạo chính thức robot Paro từ năm 1993 nhưng từ năm 1989, tôi đã nghiên cứu robot trong chuyên ngành đào tạo tiến sĩ của mình. Sau khi phát triển mẫu đầu tiên, tôi mang robot Paro tham gia triển lãm quốc tế ở Thụy Điển, Paro gây được sự chú ý của nhà khoa học và cả người dân. Quá trình nghiên cứu và phát triển robot Paro vẫn được tiếp diễn liên tục.

Hai con robot đến Việt Nam lần này chính là Paro thế hệ thứ 8, được chế tạo vào năm 2004, trên cơ sở điều tra các kết quả trị liệu của robot này của những thế hệ trước. Có thể chia robot làm hai loại, robot trị liệu và robot làm vật nuôi trong nhà.

P.V: Hiện nay, Paro có phải là loại robot trị liệu duy nhất tại Nhật Bản. Vậy, hiệu quả trị liệu của nó là gì, thưa Tiến sĩ?

TS Shibata: Đúng vây, hiện chỉ có loại robot Paro dành làm phương pháp trị liệu. Robot Paro được sử dụng nhiều trong các bệnh viện, trong các viện dưỡng lão.

Các nước ở châu Âu và Mỹ thường áp dụng hình thức cho bệnh nhân tiếp xúc với động vật, thông qua việc chơi với động vật, giúp tìm ra được “tiềm năng” của bản thân, giúp giảm stress. Nếu nuôi con vật sống, thì sẽ gặp phải vấn đề lây nhiễm bệnh tật từ vật nuôi. Như vậy, phương pháp trị liệu bằng robot Paro ngày càng được các nước này ưa chuộng.

Chú hải cẩu này có khả năng mang lại sự thoải mái và cảm giác dễ chịu cho những bệnh nhân trong các bệnh viện và các khu trị liệu. Về mặt xã hội, sau khi tiếp xúc với động vật cũng như Paro, người bệnh, nhất là người già còn tăng cừơng chức năng giao tiếp với người chung quanh.

P.V: Sản xuất robot Paro với mục đích trị liệu, vậy kỹ thuật nào được coi là quan trọng nhất trong quá trình chế tạo robot hải cẩu này?

TS Shibata: Điều quan trọng nhất là hai yếu tố chắc chắn và an toàn. Robot Paro thế hệ sau được chế tạo có nhiều ưu điểm như chịu tác động mạnh từ bên ngoài, không gây hỏng. Động cơ bảo đảm tính an toàn, chạy êm, trông tự nhiên như thật.

Giao lưu với sinh viên trường Đại học Bách khoa Hà Nội.

Yếu tố vệ sinh cũng cần chú ý bằng việc sử dụng kỹ thuật chống bẩn. Bộ lông được sản xuất có tính kháng khuẩn nên không dễ bị bẩn, đặc biệt là không bị rụng lông. Robot bảo đảm không có sóng điện từ phát sinh, lọt ra ngoài, ảnh hưởng đến máy trợ tim của người bệnh tại các bệnh viện hay viện dưỡng lão.

Xét về ứng dụng và thiết kế, robot Paro không thiết kế điều khiển từ xa. Có danh sách theo từng thứ tiếng trên robot Paro để phù hợp với việc sử dụng ở mỗi nước. 

P.V: Còn về “tuổi thọ” của robot Paro như thế nào, thưa Tiến sĩ?

TS Shibata: “Tuổi thọ” của Paro là từ 15 đến 20 năm, tuy nhiên tính chắc chắn còn phụ thuộc vào người sử dụng. Nhà máy sản xuất Paro ở tỉnh Toyama, nơi có truyền thống công nghệ chế tạo công nghệ ở Nhật Bản. Toyama có phong cảnh đẹp được coi như “dãy An-pơ” của Nhật Bản. Không chỉ là địa danh nổi tiếng mà Toyama còn giàu truyền thống văn hóa, với các nghề thủ công như sản xuất giấy (có từ cách đây 1.200 năm), điêu khắc gỗ, sản xuất con rối truyền thống Karakuri. Đặc biệt, con rối này được coi là “ông tổ” của ngành sản xuất robot ở nước Nhật.

P.V: Robot Paro được chia thành hai loại. Vậy, Robot Paro dành cho hoạt động trị liệu để chữa bệnh ở thị trường nào và làm con vật trong nhà ở thị trường nào?

TS Shibata: Robot Paro gây chú ý từ khi công chiếu bộ phim “Tình yêu máy móc” ở các nước châu Âu. Sự khác biệt gì về văn hóa cũng như quan niệm giữa người châu Á và châu Âu trong việc sử dụng Paro. Các nước châu Á như Nhật Bản và Hàn Quốc kỳ vọng Paro như con vật đáng yêu trong nhà. Còn các nước châu Âu và Mỹ lại kỳ vọng Paro là phương tiện trị liệu hữu hiệu.

Ở Nhật Bản, riêng năm 2005, 1.500 con robot Paro được bán ra, trong đó khỏang 60-70% là những người dân mua lẻ. Điều này thấy rõ rằng, nước Nhật đang “vấp” phải tình trạng già hóa dân số, kéo theo việc khó khăn khi chăm sóc sức khỏe, nhất là những người già cô đơn hay khi bệnh quên của người già tăng lên. Những người mua Paro ở Nhật Bản quý mến Paro, coi Paro như một thành viên trong gia đình. Thực tế là, khi có robot Paro ở bên cạnh, người già được trao đổi, vuốt ve, âu yếm, như được tái khởi động, tâm trạng trở lại bình thường.

Hầu hết các con Paro bán tại châu Âu đều được sử dụng điều trị tại các cơ sở y tế. Tại Đan Mạch, chúng tôi tiến hành điều tra 2006-2008 về hiệu quả của Paro trong trị liệu ở các viện dưỡng lão, cơ sở y tế và chăm sóc trẻ em. Đan Mạch mua 100 con Paro năm 2009, dự tính năm 2011 sẽ mua khỏang 100 con Paro nữa. Muốn sử dụng Paro để trị liệu tại Đan Mạch, người dân phải học qua một khóa, mới được cấp giấy phép sử dụng Paro. Hiện có hơn 200 người đang làm việc tại các cơ sở y tế và trị liệu ở nước này được học cách sử dụng Paro. Những người mắc chứng hay quên ở đây đã không phải uống thuốc sau khi trị liệu bằng Paro.

Hệ thống chương trình sử dụng Paro để người dân có thể áp dụng hiệu quả nhanh nhất, cách làm này đang là kinh nghiệm hay cho các nước châu Âu khác như Hà Lan, Đức, Italia...

P.V:   Hiện nay, robot Paro có mặt tại bao nhiêu nước trên thế giới?

TS Shibata: Hiện nay, robot Paro có mặt tại hơn 30 quốc gia trên thế giới. Paro tham gia triển lãm ở nhiều nước trên thế giới như bảo tàng Lurve (Pháp), bảo tàng Mỹ thuật hiện đại ở New York, bảo tàng ở Bru-nây, Hàn quốc, Italia… Hiện, giá mỗi con robot Paro tại Mỹ là 6.000 USD, tại châu Âu là 4.600 euro. Đan Mạch sử dụng Paro tại các cơ sở điều trị, được miễn thuế giá trị gia tăng là 25%.

P.V: Tiến sĩ hy vọng khi nào Paro được áp dụng trị liệu ở Việt Nam?

TS Shibata: Lần đầu tiên tôi đến Việt Nam, robot Paro được người dân Việt Nam yêu quý. Hy vọng, trong thời gian tới, tại Việt Nam, Paro được sớm áp dụng trị liệu taị các viện dưỡng lão, cơ sở y tế và chăm sóc trẻ em. Nếu phía Việt Nam yêu cầu, thông qua các chương trình, dự án, chúng tôi có thể gửi Paro sang Việt Nam để tham gia quá trình trị liệu, phục hồi sức khỏe.

Trên cơ sở nghiên cứu điều tra, dữ liệu, chúng tôi sẽ sản xuất cải tiến robot phục vụ con người để đời sống tinh thần ngày càng phong phú hơn. Đó có thể là robot chuyên biệt cho từng bệnh như robot trị bệnh mất trí nhớ, robot chăm sóc trẻ em...

P.V: Xin chân thành cảm ơn Tiến sĩ.

Tiến sĩ khoa học Takanori Shibata sinh năm 1967. Là nhà nghiên cứu khoa học của Viện Nghiên cứu Khoa học và Công nghệ Công nghiệp tiên tiến Quốc gia Nhật Bản (AIST) từ năm 1998. Ông cũng là cục phó về chính sách Công nghệ Thông tin và Truyền thông, Cục Khoa học-Công nghệ và Chính sách đổi mới cuộc sống của Văn phòng nội các của Chính phủ Nhật Bản từ năm 2009 đến năm 2010.

Bản thân robot Paro và Tiến sĩ Shibata nhận được 20 giải thưởng khác nhau. Tiến sĩ Shibata được Junior Chamber International công nhận là gương mặt trẻ tiêu biểu của thế giới vào năm 2004 và nhận giải thưởng do Thủ tướng Nhật Bản trao tặng vào năm 2003. Ngòai ra, Tiến sĩ Shibata cũng đã nhận được nhiều giải thưởng liên quan đến kỹ thuật và thiết kế robot từ Bộ Kinh tế, Thương nghiệp và Công nghiệp của Nhật Bản vào năm 2006. Robot Paro nhận được giải thưởng “Robot của năm” năm 2006.

TRÀ MY (thực hiện)

Có thể bạn quan tâm