<p> <meta content="text/html; charset=utf-8" http-equiv="Content-Type"> <meta content="Word.Document" name="ProgId"> <meta content="Microsoft Word 11" name="Generator"> <meta content="Microsoft Word 11" name="Originator"> Tăng hiệu lực pháp luật về bả

NDĐT - Sau 12 năm thi hành Luật Tài nguyên nước đã mang đem lại nhiều kết quả tích cực, phục vụ đời sống nhân dân và góp phần phát triển kinh tế - xã hội. Tuy nhiên, bên cạnh những mặt tích cực, Luật cũng bộc lộ nhiều hạn chế, bất cập cần được bổ sung cho phù hợp sát tình hình thực tế.

Nhất trí về sự cần thiết ban hành Luật Tài nguyên nước (sửa đổi) trong Tờ trình của Chính phủ nhằm khắc phục những tồn tại, vướng mắc và bổ sung những quy định để đáp ứng yêu cầu quản lý nhà nước về tài nguyên nước. Ủy ban Kinh tế cho rằng, Luật đã bộc lộ một số hạn chế, bất cập và nhiều vấn đề mới phát sinh như chưa quy định đầy đủ, toàn diện về điều tra cơ bản, chiến lược, quy hoạch tài nguyên nước; quản lý lưu vực sông; điều hoà, phân bổ nguồn nước một cách hợp lý, cân bằng lợi ích kinh tế - xã hội - môi trường; sử dụng nước tiết kiệm; duy trì dòng chảy tối thiểu trên sông và mực nước giới hạn khai thác các tầng chứa nước dưới đất…

Về quy hoạch tài nguyên nước, mặc dù Luật Tài nguyên nước đã xác định vai trò của việc xây dựng và thực hiện quy hoạch tài nguyên nước; quy định mọi hoạt động bảo vệ, khai thác, sử dụng tài nguyên nước và phòng chống, khắc phục hậu quả tác hại do nước gây ra phải tuân thủ quy hoạch tài nguyên nước.

Tuy nhiên, một số đại biểu cho rằng, công tác quy hoạch tài nguyên nước còn chậm, do Luật mới chỉ quy định về nguyên tắc, thiếu các quy định cụ thể về nội dung, trình tự thủ tục lập, thẩm định, thẩm quyền phê duyệt....

Bên cạnh đó, các đại biểu cũng chỉ ra nguyên nhân là chưa có cơ chế, biện pháp cụ thể để bảo đảm quy hoạch khai thác, sử dụng nước của các ngành, lĩnh vực có liên quan đến sử dụng tài nguyên nước phù hợp với quy hoạch tài nguyên nước.

Một số đại biểu cho rằng, việc thiếu quy hoạch, cùng với thiếu một tổ chức đủ mạnh để điều phối các hoạt động trên lưu vực đã phát sinh những vấn đề liên ngành, liên địa phương cần giải quyết nhưng chưa được phối hợp xử lý kịp thời. Do đó dẫn tới việc khai thác, sử dụng tài nguyên nước chưa hợp lý, chưa bảo đảm tổng hợp, hiệu quả; chưa gắn kết giữa khai thác, sử dụng với bảo vệ, với phòng, chống tác hại do nước gây ra; quản lý chất lượng và số lượng không đi đôi với nhau và cũng làm hạn chế hiệu quả thực thi của Luật trên thực tế.

Về phòng, chống và khắc phục hậu quả tác hại do nước gây ra một số ý kiến đề nghị điều chỉnh để hoạt động khai thác, sử dụng, bảo vệ tài nguyên nước và phòng, chống tác hại do nước gây ra gắn kết chặt chẽ, hỗ trợ lẫn nhau, đảm bảo nguyên tắc quản lý thống nhất, khai thác, sử dụng tổng hợp, đa mục tiêu; khai thác mặt lợi phải kết hợp với phòng ngừa mặt hại.

Tuy nhiên, theo các đại biểu, cần quy định đảm bảo sự thống nhất của hệ thống pháp luật, tránh chồng chéo, trùng lắp hoặc xung đột với các luật, pháp lệnh có liên quan.

Về phạm vi điều chỉnh của dự thảo Luật gồm quản lý, bảo vệ, khai thác, sử dụng tài nguyên nước, nhiều ý kiến đại biểu thống nhất việc cần điều chỉnh “nước biển ven bờ”. Các ý kiến cho rằng, việc điều chỉnh nước biển ven bờ là cần thiết, bởi nước biển ven bờ là vùng nước có liên quan chặt chẽ và có tác động đến nguồn nước trên đất liền, chịu ảnh hưởng từ hoạt động của con người. Ngoài ra, cũng là để thống nhất quản lý, bảo vệ nguồn nước, hạn chế tác hại do nguồn nước trên đất liền gây ra cho nước biển ven bờ và ngược lại.

Ủy ban Kinh tế cũng yêu cầu nêu rõ cách thức xác định nước biển ven bờ và chỉ điều chỉnh nước biển ven bờ trong phạm vi vùng nước nội thủy.

Ngoài ra cũng có ý kiến đề nghị không điều chỉnh vấn đề khắc phục hậu quả tác hại do nước gây ra vì chồng chéo với quy định của các văn bản pháp luật khác.

Ủy ban Kinh tế đề nghị, không đưa nước nóng, nước khoáng thiên nhiên vào Luật này vì cho rằng các loại nước trên được coi là khoáng sản và đã được điều chỉnh bởi Luật Khoáng sản năm 2010.

Có thể bạn quan tâm