Rừng nuôi thần sét!
Chúng tôi lên làng Bài đúng vào vụ thu hoạch mía. Những chiếc xe tải 10 tấn nối đuôi nhau lao vùn vụt về phía Công ty đường Lam Sơn. Từ ven đường Hồ Chí Minh nhìn sang, hút vào tầm mắt của chúng tôi là mầu xanh của cây rừng và một nếp nhà sàn xinh xắn đã ngót... Chủ nhân của ngôi nhà ấy - già Phạm Cố Gắng đã bước sang cái độ xưa nay hiếm. Vóc người ông nhỏ thó nhưng lanh lợi, rắn rỏi. Ông kể lại với ký ức của bản Mường thuở xa xưa: Dạo ấy nơi đây còn chưa có tên làng Bài. Tất cả bản Sung, bản Pheo, đồng Luồng... đều phủ mầu xanh của cây rừng. Ông nhớ có những cây lim, cây de ba bốn người ôm không xuể, dân bản gọi là cây mẹ, thiêng lắm không ai dám đụng tới cả. Mỗi sáng lên rẫy, vẫn có những vết chân cọp, chân lợn rừng in hằn trên mặt đất. Dân bản không chặt cây đốt rừng mà chỉ tìm mảnh đất dưới hắp (thung lũng) để tỉa ngô trồng nếp, rồi đi kiếm măng, bọng ong, trứng kiến về làm thức ăn thôi. Thế rồi năm 1963 , người dưới xuôi lên Xuân Phú định cư ngày càng nhiều, nơi này mới đông đúc dần lên. Nhà nước giao rừng cho lâm sinh quản lý, sau không hiểu sao họ cũng về xuôi hết. Các khu rừng ở bản Sung, bản Pheo cứ thưa dần, cây to thì dân hạ làm nhà, cây bé thì kẻ chăn trâu chặt làm củi. Ông Gắng lo lắm, lại đeo rựa tìm lên cánh rừng xưa. Đã có vài cây lim ở mép rừng bị chặt dở, thớ gỗ lộ ra đỏ au như máu, cây trám bùi còn non hằn về dao băm. Lòng ông thắt lại. Cánh rừng thiêng bao đời nay yên bình giờ đã bị phạm đến, ông không đành ngồi nhìn điều đó xảy ra. Nhưng phải làm sao đây để dân bản hiểu được, không hùa theo bọn phá rừng nữa? Ông thơ thẩn trong rừng rồi chợt nhìn thấy một cây dàng dàng cổ thụ bị sét đánh cháy sém. Ông nhớ lại trước đây khu rừng này cũng hay bị sét đánh lắm. Có lẽ do nó nằm trên ngọn đồi cao nhất lại toàn cây to nên mới vậy. Thế là một ý nghĩa lóe lên trong đầu ông... Hôm sau người khắp bản truyền nhau cái tin: "Rừng ông Gắng nuôi thần sét à, đừng có vào mà sét quật chết, cây dàng dàng to bị quật cháy đen rồi à". Từ đó cánh rừng không còn bị quấy quả nữa, nhưng cũng chẳng ai dám bén mảng đến gần ông. Họ bảo ông bị "hóa thành mo" rồi nên mới nuôi được thần sét. Mười ba đứa con nheo nhóc của ông không có bạn chơi vì trót là con của... "mo sét". Những củ măng, bó củi bà Gắng kiếm về cũng không đổi được gạo nữa. "Rừng nuôi sét làm nhà ta khổ lắm, không ai gần nữa, ta phải đi Bao Bào, Bao Lâm tìm củ mài cho cái nít ăn. Hai buổi tối mới về nhà một lần".
Già Gắng nhớ lại: "Người dưới xuôi lên thấy ta có rừng, bảo chặt cây bán sẽ được tiền, ta nói ở rừng không tiêu được tiền. Họ lại nói sẽ cho bắp, cho nếp, bắp thì nhà ta muốn ăn nhưng phải hạ hết cây thì chịu thôi không "ăn rừng" được đâu. Thế là họ bảo ta bị khùng...". Sâu trong đáy mắt ông, những tháng năm cơ cực ấy đang hiện về. Khổ tâm lắm nhưng vì giữ rừng mà ông dằn lòng nhìn lũ con đói ăn, dằn lòng chịu mang tiếng xấu, bị dân bản xa lánh... Ngày ấy cách đây đã gần một phần tư thế kỷ...
Và một huyền thoại rừng có thật
Giờ đây khi tất cả đã trôi qua, nhưng đôi lúc nghĩ lại ông già rừng ấy vẫn thấy mình thật có lỗi vì đã trót nói không thật cái bụng với bà con. Nhưng điều làm ông ấm lòng là giữa bạt ngàn mía và mía ấy, nhưng cây lim, lát, dàng dàng, dẽ, trám... vẫn hiên ngang vươn cao. Cánh rừng đã được Nhà nước giao hẳn cho gia đình ông quản lý bảo vệ, có giấy bìa đỏ hẳn hoi. Ông bỏ công trồng một vành đai luồng chung quanh để giữ rừng. Cách đây 9 - 10 năm, dân cả xã chưa ai làm mía nên thiếu đói nhiều hay vào rừng đẵn gỗ bán, rồi bọn trẻ trâu bắn chim, săn rắn. Ông bắt gặp liền bảo: "Không có thần sét đâu, cứ đến đây mà chặt cây bắn chim đi. Nhưng không có con chim, con rắn, sâu bọ nhiều ra phá hết bắp, hết rẫy, chúng mày lấy gì mà ăn?". Dân bản hiểu ra không phá rừng nữa. Thế nhưng cái thời buổi người khôn, của khó này, lợi ích trước mắt khiến nhiều kẻ làm liều. Bọn chặt trộm gỗ vẫn hay mò đến rừng của ông. Có lần đang ăn cơm tối, nghe tiếng cây đổ, ông lại đeo rựa cầm đuốc chạy lên. Ông thuộc từng lối nhỏ, từng gốc cây trong khu rừng này. Cây trám cao gần 30 m vừa bị hạ đổ, làm xơ xác cá một góc rừng. Ông lang thang trên rừng suốt mấy ngày sau, quyết tìm bằng được kẻ nhẫn tâm để trừng trị... Chỉ tay về phía mạn tây, ông kể: "Đó, gần nghìn gốc quế với 500 cây lát ta trồng từ năm tám sáu. Còn những cây cao bằng đầu người kia là lim đấy, ta vãi hàng trăm hạt mới được một cây. Hơn chục năm nay rồi. Rừng vẫn hay bị sét đánh lắm, năm ngoái cây dàng dàng mẹ hơn trăm tuổi chết cháy. Người buôn gỗ lên bảo mua 12 triệu nhưng ta không ưng bán, để lại xẻ ván hòm cho mấy người già ở bản thôi. Trai gái đứa nào thật bụng lấy nhau ta cho gỗ, cho luồng làm nhà, sau này đẻ con, đẻ cái phải trồng lại cây trả cho mẹ rừng". Cánh rừng nằm trên cao hút gió trơ trọi giữa những đồi mía nên mùa mưa bão cây thường hay bị đổ, cứ mỗi lần như vậy ông lại đem cây con lên trồng thế vào. Nhờ đó tán rừng vẫn đan kín, phía dưới là cây bụi, dây leo chằng chịt. Nhiều người bảo ông phát quang để dễ đi lại nhưng ông nghĩ khác: "Phải để cho con giun, con dế có chỗ sống mà ủi đất, chăm cây nữa chứ. Rừng mà không rậm thì là rừng tép, rừng cảnh à?".
Tôi hỏi vui: "Già yêu rừng thế, bà không ghen à?". Ông thực thà: "Không à, chỉ ghen với... đại hội thôi". Rồi ông kể "Mấy năm gần đây, không hiểu sao ta thấy "giấy gọi" đi đại hội nhiều lắm à, đại hội nông dân ở huyện; ở tỉnh, rồi đi nhận huy chương, bằng khen trồng rừng... Ta nhớ nhất là năm chín tư (1994) được bác Thủ tướng Chính phủ điện về hỏi thăm nữa...". Lời đồn đại về ông già rừng huyền thoại nuôi thần sét đã lùi xa về quá khứ nhưng giờ đây đã hiển hiện một huyền thoại sống về con người mới nguyện sống chết vì mầu xanh cây rừng.