Nuôi cá tra, cá ba sa bền vững

Trên sông Tiền, sông Hậu có những nhà bè nổi san sát, nơi nhiều trở thành làng bè nuôi cá như ở Châu Ðốc, Long Xuyên. Số lượng bè lên tới hàng nghìn chiếc. An Giang có tám vùng nuôi với số lượng khoảng 4.000 chiếc bè, chủ yếu là nuôi cá tra, cá ba sa, ở vùng An Phú, Tân Phú, Châu Phú, thị xã Châu Ðốc, TP Long Xuyên. Hầu hết những nhà bè này được làm bằng gỗ sao, lợp tôn mầu, trong nhà có đủ tiện nghi, có chiều dài khoảng 30 m, ngang hơn 10 m và chiều sâu tùy theo độ sâu của mực nước sông (khoảng 5 m). Phần đáy ngập sâu trong nước được bao lưới thép chống rỉ, để nuôi cá. Mỗi bè cá trị giá hơn 300 triệu đồng, có bè tới một tỷ đồng, một bè sử dụng được 10 năm. Hàng trăm nhà bè san sát nhau hình thành nên những làng bè. Nghề nuôi cá tra, cá ba sa còn được mở rộng ở các đăng, quầng bên sông, nơi chân ruộng, đuôi cồn. Ðăng, quầng là những vùng nước ngập bên sông, một phía dựa vào bờ, phía ngoài sông dùng đăng bao chắn không cho cá ra.

Nghề nuôi cá tra, cá ba sa đến nay đã phát triển ở nhiều tỉnh đồng bằng sông Cửu Long. Theo Bộ Thủy sản, năm 2004, diện tích nuôi cá tra, cá ba sa trong ao, đầm, chân ruộng, đuôi cồn là 3.200 ha (năm 1997 là 1.290 ha, năm 2001 là 2.300 ha); tổng thể tích bè 695 nghìn m3 (năm 1997 là 160 nghìn m3). Sản lượng cá tra, cá ba sa năm 1997 là 40.205 tấn, đến năm 2001 đã là 114.300 tấn (tăng gần 2,84 lần), năm 2004 lên đến hơn 315 nghìn tấn. Nhờ ứng dụng tiến bộ kỹ thuật, công nghệ mới, năng suất cá nuôi tăng nhanh. Nuôi trong bè đạt tới 80-100 kg/m3/năm (Cần Thơ đạt 170 kg/m3/năm, Vĩnh Long đạt 120 kg/m3/năm); nuôi trong ao đạt 20 tấn/ha/năm (An Giang đạt 53 tấn/ha/năm, nếu thực hiện tốt quy trình, có nơi đã đạt 100 tấn/ha/năm).

Cùng với việc nuôi thương phẩm, việc chế biến cá tra, cá ba sa cũng phát triển ở nhiều tỉnh đồng bằng sông Cửu Long. Ðến nay, có 20 cơ sở chế biến (năm 1997 chỉ có tám cơ sở), hầu hết đã được đầu tư thiết bị, công nghệ tiên tiến và đạt tiêu chuẩn an toàn vệ sinh thực phẩm. Sản phẩm chế biến từ cá tra, cá ba sa đã trở nên tiện dụng, có giá trị gia tăng và được làm theo quy trình nghiêm ngặt. Từ cá tra, cá ba sa, các cơ sở đã chế biến ra 100 loại thực phẩm. Trong đó có loại hàng bán khô, ăn liền, các loại chả, phi-lê, người tiêu dùng có thể nấu canh chua, nấu lẩu,... Trước những năm 1997-1998, sản phẩm cá tra, cá ba sa chủ yếu được xuất sang thị trường Australia, Hồng Công, đến nay việc xuất khẩu cá da trơn đã mở ra thị trường 31 nước.

Ngoài những cơ sở công nghiệp sản xuất thức ăn nuôi cá, nhiều hộ nông dân đã chủ động sản xuất thức ăn bằng nguồn nguyên liệu có sẵn trong vùng, góp phần hạ giá thành nuôi cá. Tuy nhiên, do phát triển nhanh, đã nảy sinh sự mất ổn định và nguy cơ thiếu bền vững của nghề cá này.

Theo tổng hợp từ các địa phương, dự kiến sản lượng cá tra, cá ba sa đến năm 2010 là 1,8 triệu tấn, Bộ Thủy sản dự kiến mức sản lượng đến năm 2010 toàn vùng là một triệu tấn. Trong khi sản lượng nuôi trồng các loại thủy sản năm 2004 là 1,15 triệu tấn và dự kiến năm 2010 là hai triệu tấn. Nghĩa là cá tra, cá ba sa sẽ chiếm một nửa sản lượng thủy sản nuôi trồng. Nhịp độ phát triển này cần được tính toán cụ thể với những giải pháp về quy hoạch, thị trường, công nghệ nuôi, chế biến, giải pháp về bảo vệ môi trường và an toàn vệ sinh thực phẩm, vấn đề tổ chức sản xuất, dịch vụ và quản lý,... nhằm nâng cao hiệu quả kinh tế, giảm những rủi ro cho người sản xuất.

Hiện nay, do nuôi cá trong ao, đầm, đăng, quầng đạt hiệu quả kinh tế cao hơn nuôi trong bè trên sông, nhiều hộ nông dân bán bè, thuê đất bãi bồi bên sông đào ao nuôi cá. Nhiều chủ bè ở Châu Ðốc, Long Xuyên phàn nàn, cá nuôi trong bè giá bán thấp hơn cá nuôi ao, hầm, đăng quầng; trong khi nuôi cá ao, hầm, đăng quầng chi phí thấp hơn, cho nên đã tính chuyện bán bè để nuôi cá da trơn bằng hình thức khác. Cũng do sự hấp dẫn của việc nuôi cá trong ao, đầm, đăng quầng bên sông mà nhiều hộ nông dân ở Ðồng Tháp sử dụng đất ven sông đào ao nuôi cá. Tình trạng tự phát về nuôi, về thị trường, cũng tạo ra nguy cơ lớn, phát triển không bền vững của nghề nuôi cá da trơn ở đồng bằng sông Cửu Long.

Cũng như việc nuôi các loài thủy sản khác, khi cá tra và cá ba sa trở thành sản phẩm xuất khẩu có giá trị cao và là một trong những mặt hàng thủy sản chủ lực, thì cần có giải pháp về quy hoạch và các chính sách phù hợp, nhằm giảm các yếu tố tự phát, tăng sự liên kết trong cộng đồng, tiến tới tổ chức ngành hàng theo hướng bền vững và tăng sức cạnh tranh trên thị trường. Thời gian qua, quy hoạch sản xuất và tiêu thụ cá tra, cá ba sa của toàn vùng đã được xây dựng, nhưng chưa được điều chỉnh kịp thời trước những yêu cầu phát triển hiện nay. Một số địa phương quy hoạch chưa phù hợp sự phát triển chung của vùng. Chưa có quy hoạch chi tiết vùng nuôi, công tác quản lý còn kém. Một số địa phương đã có quy định cấm vớt cá bột tự nhiên, nhưng tình trạng vớt cá bột ba sa vẫn diễn ra. Nhiều địa phương chưa có biện pháp quản lý ao, đầm nuôi cá.

Trên cơ sở điều kiện tự nhiên, các địa phương điều chỉnh lại quy hoạch, bố trí vùng sản xuất có quy mô phù hợp, gắn với gìn giữ môi trường, tạo ra vùng có khối lượng hàng hóa lớn, có tính cạnh tranh cao, thực hiện tốt yêu cầu về an toàn vệ sinh thực phẩm. Phát triển nghề nuôi cá tra, cá ba sa theo hướng công nghiệp, lấy xuất khẩu làm động lực, đồng thời coi trọng thị trường trong nước. Cơ quan chuyên ngành xây dựng hệ thống tiêu chuẩn về bảo đảm chất lượng cá nuôi, chất lượng thức ăn, thuốc thú y, chất lượng sản phẩm chế biến, xây dựng và quảng bá thương hiệu cá tra, cá ba sa. Thực hiện đồng bộ các giải pháp về quy hoạch, về thị trường, công nghệ chế biến và bảo vệ môi trường, an toàn vệ sinh thực phẩm, là góp phần làm cho nghề nuôi cá tra và cá ba sa thời gian tới phát triển bền vững.

Có thể bạn quan tâm