Nỗi lo mai một di sản nghề thêu truyền thống

Nghề thêu tay truyền thống làng Đông Cứu, xã Dũng Tiến, huyện Thường Tín (Hà Nội) đã được Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch công nhận là di sản văn hóa phi vật thể cấp quốc gia. Tuy nhiên, bên cạnh niềm tự hào này, là nỗi lo mai một, thất truyền khi mà ngay tại xã Quất Động, nơi phát tích ra nghề thêu cũng không còn mấy người mặn mà với nghề thủ công truyền thống có lịch sử hơn 300 năm này.

Nghệ nhân Bùi Lê Tiến, làng nghề Thêu Quất Động, dù tuổi cao vẫn luôn cần mẫn bên khung thêu.
Nghệ nhân Bùi Lê Tiến, làng nghề Thêu Quất Động, dù tuổi cao vẫn luôn cần mẫn bên khung thêu.

Thịnh, suy nghề kim chỉ

Những huyền tích quanh câu chuyện vị quan đời Lê có tên là Lê Công Hành (1606 - 1661) sau khi đi sứ phương bắc, đã mang nghề thêu thùa về truyền dạy cho dân làng mình, là niềm tự hào của người dân xã Quất Động, huyện Thường Tín, Hà Tây cũ, nay là Hà Nội trong suốt hơn 300 năm qua. Những xã được truyền nghề này, trong đó có Đông Cứu, sau này đều dựng chung đền thờ ông ở thôn Hướng Xá, gọi là đền Ngũ Xã. Giỗ ông vào ngày 12-6 âm lịch, nhiều vùng đã lấy ngày mất của ông làm ngày giỗ Tổ nghề thêu.

Từ cái nôi làng nghề này, nghề thêu đã phát triển và có mặt khắp nơi trong cả nước, sản phẩm được ứng dụng rất nhiều trong đời sống, trở thành một phần trong văn hóa của người Việt. Chẳng thế mà có câu ca dao “Hỡi cô mà thắt bao xanh/ Có về Quất Động với anh thì về/ Quất Động anh đã có nghề/ Thêu gà, thêu vịt, thêu huê trên cành”.

Dân làng Quất Động thêu mọi thứ, từ cờ, khăn trần, áo cho các quan văn, võ, đồ thờ cúng các vị thần như y môn, câu đối, phướn, trướng. Sau này, là giày, gối, ô-van trải bàn, khăn ăn, tranh tam đa, tranh phong cảnh, áo ky-mô-nô theo các đơn đặt hàng từ Pháp, Nhật Bản, Ấn Độ… Những năm 50 của thế kỷ trước, dọc con đường từ Hà Nội trở về phía nam, hầu như làng nào, xã nào cũng có người thêu. Hàng thêu xong đến đâu có người mua đến đó, thậm chí người mua phải đặt trước hàng tháng. Trong làng, lúc thịnh nhất có hàng chục xưởng thêu lớn nhỏ, thu hút vài trăm người thêu thùa thâu đêm suốt sáng…

Trong các sản phẩm từ thêu tay truyền thống như: khăn, mũ, áo dài, tranh, chân dung… thì thêu chân dung thuộc loại khó nhất. Người làng Quất Động thường hay nhắc nhiều đến nghệ nhân Phạm Viết Tương với bức thêu chân dung Bác Hồ hay nghệ nhân Thái Văn Bôn với chân dung nhà vua Thái-lan. Cái khó của thêu chân dung là ở thần thái của đôi mắt. Rất nhiều người sau này thêu chân dung Bác Hồ, nhưng so với bức của nghệ nhân Phạm Viết Tương thì không sao đẹp bằng. Tiếp đó phải kể đến tài nghệ thêu hoàng phục với tên tuổi của cụ Bùi Lê Kính. Cụ Kính là người được triều đình nhà Nguyễn mời vào Huế thêu hoàng bào cho Vua Bảo Đại cùng Hoàng hậu Nam Phương và hoàng gia.

Các nghệ nhân và thợ thêu của làng thêu Quất Động.

Thế nhưng, như lẽ tất yếu, có thịnh có suy. Về làng nghề thêu Quất Động bây giờ thật khó để tưởng tượng đây là ngôi làng phát tích nghề thêu truyền thống 300 năm trước. Khó khăn lắm chúng tôi mới tìm được một vài người còn giữ nghề, nhưng buồn thay họ chỉ là những thợ thêu thuê cho các xưởng thêu ở làng khác, còn lại, phần lớn bỏ nghề đi làm công nhân. Ông Bùi Đăng Tuấn ở làng Quất Động, trước là chủ một xưởng thêu có vài chục tay kim bảo rằng: Trước kia nghề thêu phát triển là do có nhiều người ưa chuộng mặt hàng này. Giờ, mấy ai còn thích công, thích hạc, mấy ai còn thêu rồng, thêu phượng. Nói rồi ông chỉ vào mấy chiếc khung thêu xếp ở góc nhà, bụi và mạng nhện chăng dày, bảo: “Nghĩ cũng tiếc cái nghề của ông bà để lại, nhưng vì mưu sinh, chúng tôi đành bỏ. Hiện tôi cũng xin được một chân bảo vệ ở nhà máy trong khu công nghiệp, lương 3 triệu đồng/tháng. Tính ra vẫn nhàn hơn việc ngồi thêu 12 tiếng/ngày mà chỉ được trả công có 80 đến 100 nghìn đồng”.

Bà Lê Thị Mão ở thôn Lưu Xá, một trong những thợ cả, chuyên thêu hàng xuất đi Nhật Bản cũng phải bỏ nghề đến chục năm nay. Bà bảo: “Giờ chẳng còn đơn đặt hàng nữa, mà thêu thùa thì giới trẻ chỉ thích chữ Thập. Thêu tranh chữ Thập theo mẫu của Trung Quốc bán sẵn vừa đơn giản lại đắt hơn cả những bức tranh thêu tay đòi hỏi công phu, tỉ mẩn và kỹ thuật. Có bức lên đến vài triệu trong khi tranh thêu tay truyền thống cả năm trời may ra mới bán được một bức với giá vài trăm nghìn đồng”. Nhà bà Mão có bốn người con thì cả bốn đều đang làm công nhân tại khu công nghiệp của huyện.

Nghệ nhân Phạm Viết Tương đã mất gần 20 năm nay. Kế tục kỹ thuật thêu chân dung là ông Phạm Viết Khẩn, hiện đã ngoài 80 tuổi, tay đã run, mắt đã lòa. Ông buồn bã nói: “Không đứa cháu nào chịu học nghề thêu. Chúng đều ra Hà Nội hoặc các thành phố lớn để làm việc. Kỹ thuật thêu này có lẽ đã đến lúc không có người kế truyền”. Hằng ngày, ông Khẩn vẫn mang khung ra thêu, ngày nhiều ngày ít, chủ yếu như ông bảo là để đỡ nhớ nghề, chứ thu nhập chả bao nhiêu. Nghệ nhân Thái Văn Bôn ở thôn Lưu Xá cũng trăn trở tìm người kế truyền. Mấy người con đều làm công chức, không ai có nhu cầu quay về làng thêu thùa. Nỗi lo thất truyền đang ngày càng hiển hiện khắp vùng quê được mệnh danh là cái nôi thêu thùa kim chỉ này.

Bảo vệ di sản nghề thêu bằng cách nào?

Khó khăn là thế, nhưng có những nghệ nhân rất trẻ đã và đang nhen lên ngọn lửa truyền thống. Đó là nghệ nhân Vũ Văn Giỏi ở xã Dũng Tiến. Xưởng thêu của anh chuyên phục dựng các bộ trang phục vua chúa, hoàng hậu thời Đinh, Lý, Trần, Lê, Trịnh, Nguyễn cho các đoàn văn công, bảo tàng. Mỗi tác phẩm của anh là một sự thể hiện độc đáo với những đường nét, gân khối khác lạ. Cho đến nay, nghệ nhân Vũ Văn Giỏi là người duy nhất của Hà Nội có thể khôi phục được những chiếc long bào, áo hoàng hậu xưa. Anh Giỏi cho biết, các trang phục truyền thống, nhất là trang phục cung đình luôn có quy định chặt chẽ về mầu sắc và chất liệu. Thí dụ, vải thêu phải từ tơ tằm nguyên chất không pha tạp. Chỉ cũng phải là chỉ tơ, do tự tay người thợ thêu làm ra. Riêng mầu chỉ là thứ mất nhiều công sức nhất của người thợ. Thêu đồ cung đình không thể dùng chỉ mầu công nghiệp, tẩm hóa chất mà phải tự tay nhuộm từ các loại củ và lá như lá trầu, trà hay củ nâu... Có loại chỉ nhuộm một lần nhưng cũng có loại phải nhuộm bốn, năm lần mới được mầu như ý.

Hơn 20 năm cầm kim, nếu không có sự tâm huyết, lòng yêu mến văn hóa dân tộc và ước mơ hồi sinh các trang phục truyền thống cung đình thì không thể làm được. Hiện các bộ y phục cung đình của Vũ Văn Giỏi đã được mang đi triển lãm tại Festival Huế; triển lãm tại Bảo tàng Lịch sử, Bảo tàng Dân tộc Hà Nội… Làng nghề thêu thôn Đông Cứu, xã Dũng Tiến cũng vinh dự vừa được Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch công nhận là di sản văn hóa phi vật thể của quốc gia. Nghệ nhân Vũ Văn Giỏi cho biết: “Đó vừa là niềm vui cũng là nỗi lo và trách nhiệm của những người thợ cầm kim như tôi”. Anh mong rằng sắp tới, nghề thêu truyền thống sẽ được Nhà nước quan tâm, nghiên cứu và có những chính sách tốt để khuyến khích những nghệ nhân truyền dạy cho con cháu.

Cũng là một người trẻ và đầy nghị lực, dù bị khuyết tật từ nhỏ, nhưng với lòng yêu nghề của cha ông để lại, chị Hoàng Thị Khương đã lập xưởng thêu, tạo công ăn việc làm cho hàng chục người khuyết tật như mình… Chị Khương bảo, mơ ước của chị cũng như người dân làng nghề thêu truyền thống là làm sao đưa được sản phẩm ra với thế giới. Khi có kinh tế, nghề thêu mới không bị mai một!

Để nghề thêu không bị quên lãng giữa dòng chảy cuộc sống đương đại, có lẽ cần một sự quy hoạch cụ thể, không chỉ là một dự án du lịch làng nghề chung chung mà đụng đâu cũng chỉ dừng ở mức tiềm năng. Con gà đẻ trứng vàng như mong muốn của ngành du lịch vẫn là câu chuyện “nói cho vui” tại các hội nghị về bảo tồn các di sản văn hóa. Nếu không, dù nỗ lực đến mấy, một lúc nào đó, di sản sẽ biến mất.

Có thể bạn quan tâm