Thiếu vi-ta-min A và bệnh khô mắt
Lần đầu Viện Dinh dưỡng, Viện Mắt, Bệnh viện Nhi tổ chức một cuộc điều tra trên cộng đồng ở nhiều tỉnh thành phố trong toàn quốc vào năm 1985. Kết quả cho thấy thiếu vi-ta-min A và bệnh khô mắt ở nước ta ở mức 7 lần cao hơn ngưỡng của Tổ chức Y tế Thế giới coi đây là vấn đề có ý nghĩa sức khỏe cộng đồng. Ước tính bấy giờ hằng năm có khoảng 5.000-6.000 trẻ bị mù lòa do khô mắt. Việt Nam đã triển khai chương trình bổ sung vi-ta-min A đại trà từ năm 1993, đã lồng ghép thành công bổ sung vi-ta-min A liều cao với chương trình tiêm chủng mở rộng, do đó nước ta đã được công nhận thanh toán bệnh khô mắt vào năm 2000, cho tới nay chúng ta vẫn duy trì được kết quả này. Tuy đã thanh toán được thể lâm sàng nặng, thiếu vi-ta-min A thể tiền lâm sàng ở Việt Nam vẫn còn tồn tại. Tổ chức Y tế Thế giới (1997) đã xếp Việt Nam vào danh sách 19 nước trên thế giới có tình trạng thiếu vi-ta-min A tiền lâm sàng ở mức độ nặng (trên 10% trẻ dưới 5 tuổi). Theo các nghiên cứu trên thế giới, thiếu vi-ta-min A tiền lâm sàng cũng làm tăng nguy cơ mắc các bệnh nhiễm khuẩn, tử vong, và giảm tăng trưởng ở trẻ em. Vì vậy, phòng, chống thiếu vi-ta-min A vẫn còn là vấn đề cần quan tâm ở Việt Nam.
Nguyên nhân thiếu vi-ta-min A ở Việt Nam: Do khẩu phần ăn bị thiếu hụt vi-ta-min A: Ðây là tình trạng phổ biến ở nhiều vùng; Tình trạng nhiễm trùng đặc biệt là lên sởi, viêm đường hô hấp, tiêu chảy cũng là các nguyên nhân quan trọng dẫn tới tình trạng thiếu hụt vi-ta-min A. Nhiễm giun, nhất là giun đũa cũng là nguyên nhân của thiếu vi-ta-min A. Ðây là những tình trạng khá phổ biến ở Việt Nam. Suy dinh dưỡng prô-tê-in năng lượng thường kèm theo thiếu vi-ta-min A vì thiếu prô-tê-in ảnh hưởng tới chuyển hóa, vận chuyển vi-ta-min A trong cơ thể.
Các biện pháp phòng, chống thiếu vi-ta-min A ở Việt Nam
Cải thiện bữa ăn, giáo dục truyền thông dinh dưỡng: Từ năm 1988, Chương trình phòng chống thiếu vi-ta-min A ở Việt Nam đã khuyến nghị mọi bà mẹ cần thực hiện nuôi con bằng sữa mẹ vì sữa mẹ. Khuyến khích và hướng dẫn chế độ ăn bổ sung hợp lý (thức ăn động vật, dầu mỡ, các loại rau xanh có hàm lượng ca-rô-ten đáng chú ý là rau muống, xà lách, rau ngót, rau diếp, rau dền, hành lá, hẹ lá, rau thơm, các loại củ quả như gấc, cà rốt, quả chín như đu đủ, xoài...). Khuyến khích phát triển hệ sinh thái vườn - ao - chuồng nuôi gia đình để tạo nguồn thực phẩm cho bữa ăn. Các chương trình giáo dục đại chúng như tổ chức "ngày vi chất dinh dưỡng toàn quốc" vào 1-2 tháng 6 hằng năm, từ năm 1996 đến nay cùng với giáo dục dinh dưỡng cho các bà mẹ.
Bổ sung viên nang vi-ta-min A liều cao: Từ năm 1993, Việt Nam áp dụng việc bổ sung vi-ta-min A liều cao cho trẻ 6-36 tháng tuổi trong toàn quốc thông qua hệ thống y tế. Hiện nay, giải pháp này đang tiếp tục áp dụng, có thể duy trì cho tới năm 2005. Trẻ được uống viên nang 200.000 đơn vị quốc tế (UI) mỗi năm 2 lần (đối với trẻ dưới 12 tháng cho uống viên nang 100.000 UI). Việc bổ sung vi-ta-min A liều cao cho các bà mẹ ngay sau đẻ cũng được áp dụng. Việc bổ sung vi-ta-min A liều cao sẽ mở rộng cho trẻ đến dưới 60 tháng kết hợp với tẩy giun định kỳ, trước hết tại 18 tỉnh đặc biệt khó khăn.
Tăng cường vi-ta-min A trong một số thực phẩm: Hiện nay ở Việt Nam đang triển khai tăng cường vi-ta-min A và một số vi chất dinh dưỡng khác vào thức ăn bổ sung trẻ em. Tuy nhiên, chương trình chỉ mới tập trung vào một số tỉnh.
Như vậy, có thể nói những thành tựu trong phòng, chống thiếu vi-ta-min A ở Việt Nam chủ yếu dựa vào giải pháp bổ sung vi-ta-min A. Trong thời gian tới, biện pháp cải thiện bữa ăn để có sự đầy đủ vi chất dinh dưỡng và tăng cường vi chất vào thực phẩm cần được quan tâm thích đáng.
Thiếu máu thiếu sắt
Theo TCYTTG, thiếu máu dinh dưỡng là tình trạng bệnh lý xảy ra khi hàm lượng Hê-mô-glô-bin trong máu xuống thấp hơn bình thường do thiếu một hay nhiều chất dinh dưỡng cần thiết cho quá trình tạo máu, bất kể do nguyên nhân gì. Thiếu máu do thiếu sắt là loại thiếu máu dinh dưỡng hay gặp nhất, có thể kết hợp với thiếu a-xít phô-lích, nhất là trong thời kỳ có thai và phụ nữ ở độ tuổi sinh đẻ.
Các điều tra dịch tễ học ở Việt Nam từ những năm 1989, 1995 cho thấy tỷ lệ thiếu máu phổ biến ở tất cả các vùng trong cả nước, tỷ lệ thiếu máu cao ở cả phụ nữ không có thai (45%), phụ nữ có thai (53%) và trẻ em, đặc biệt là trẻ em dưới 2 tuổi (60%). Vào năm 2006, ở những vùng có thực hiện bổ sung viên sắt, tỷ lệ thiếu máu ở phụ nữ tuổi sinh đẻ hạ xuống dưới 30% song tỷ lệ thiếu máu ở phụ nữ có thai vẫn còn cao (37,6%). Thiếu máu dinh dưỡng ảnh hưởng tới khả năng lao động. Nhiều nghiên cứu cho thấy năng suất lao động của những người thiếu máu thấp hơn hẳn người bình thường. Thiếu máu dinh dưỡng ảnh hưởng tới năng lực trí tuệ: Các biểu hiện mất ngủ mệt mỏi, kém chú ý, kém tập trung, dễ bị kích thích hay gặp ở những người thiếu máu. Thiếu máu dinh dưỡng còn ảnh hưởng tới thai sản, tăng nguy cơ đẻ non, tăng tỷ lệ mắc bệnh và tử vong của mẹ và con.
Nguyên nhân thiếu máu dinh dưỡng ở Việt Nam bao gồm chế độ ăn nghèo sắt, do sự tăng vọt nhu cầu sinh lý trong thời kỳ mang thai, có kinh ở nữ giới. Ðồng thời, tình trạng nhiễm giun móc và các bệnh nhiễm khuẩn.
Các biện pháp phòng, chống thiếu máu thiếu sắt
Thực hiện đa dạng hóa bữa ăn. Ðây là một giải pháp rất quan trọng. Trong điều kiện kinh tế hiện nay, cần khuyến khích và hướng dẫn các gia đình thực hiện đa dạng hóa bữa ăn, chế độ ăn cần cung cấp đủ năng lượng và các thực phẩm giàu sắt (thức ăn động vật, đậu đỗ...). Hướng dẫn các cách chế biến truyền thống như nảy mầm, lên men (giá đỗ, dưa chua...) vì các quá trình này làm tăng hàm lượng vi-ta-min C và giảm lượng ta-nin và a-xít phi-tích trong thực phẩm dẫn tới làm tăng khả năng hấp thụ sắt từ thức ăn. Thực hiện nuôi con bằng sữa mẹ và ăn bổ sung hợp lý là biện pháp tốt nhất phòng chống thiếu máu ở trẻ nhỏ. Quan tâm, dành chăm sóc dinh dưỡng ưu tiên cho bà mẹ có thai. Công tác giáo dục truyền thông đóng một vai trò cực kỳ quan trọng vì cần phải làm cho cộng đồng nhận thấy thiếu máu dinh dưỡng là một vấn đề sức khỏe quan trọng và biết cách phòng, chống chủ động.
Bổ sung bằng viên sắt: Hiện nay, chương trình bổ sung sắt cho phụ nữ có thai được thực hiện tại 1.280 xã trong toàn quốc. Phụ nữ được bổ sung sắt hằng ngày 60 mg sắt nguyên tố và 0,25 mg phô-lát từ khi có thai tới 1 tháng sau đẻ. Hiện nay, các thử nghiệm ở Việt Nam cho thấy áp dụng phác đồ hằng tuần và hướng bổ sung "dự phòng" cho phụ nữ ở độ tuổi 15-49 cho kết quả đáng hứa hẹn. Có thể đây là giải pháp bổ sung sắt mở rộng trong những năm gần đây ở Việt Nam. Vấn đề quan trọng là hình thành và duy trì một mạng lưới phân phối, giám sát tốt và đẩy mạnh giáo dục truyền thông để chị em phụ nữ tự giác, chủ động dùng viên sắt đều đặn và đủ liều.
Phòng chống giun móc, vệ sinh môi trường: Việc định kỳ tẩy giun, đặc biệt là giun móc đã chứng tỏ có tác động tới cải thiện tình trạng sắt. Hiện nay, chương trình tẩy giun mới triển khai ở một số địa bàn thí điểm (tẩy giun định kỳ, loại thuốc thường dùng hiện nay là an-ben-da-dôn, liều 400 mg; không dùng cho phụ nữ có thai và trẻ dưới 2 tuổi) phối hợp với vệ sinh môi trường, nước sạch, thay đổi tập quán dùng phân tươi trong canh tác nông nghiệp và thực hành vệ sinh cá nhân, vệ sinh ở mỗi hộ gia đình, vệ sinh ăn uống.
Tăng cường sắt cho một số thức ăn: Các chương trình tăng cường sắt vào nước mắm, vào bột mì và thức ăn bổ sung trẻ em đang được xúc tiến triển khai tại Việt Nam với sự hỗ trợ của tổ chức GAIN, ILSI, ADB và FFI. Ngoài ra, hướng nghiên cứu tăng cường vi chất dinh dưỡng và gạo cũng đang được đề xuất nghiên cứu.