Những gương mặt trí thức tiên phong

Những gương mặt trí thức tiên phong

Ông Bộ trưởng đi xe đạp

Nguyễn Văn Huyên và Nguyễn Mạnh Tường là đôi bạn tri kỷ, tri âm từ thời cùng du học tại Pháp, cùng bảo vệ luận án tiến sĩ văn khoa. Trở về nước, hai “ông nghè Tây” này dứt khoát không nhận lời ra làm quan cho chính quyền thuộc địa. Tiến sĩ Huyên tiếp tục nghiên cứu văn - sử - địa tại Trường Viễn Đông Bác cổ. Tiến sĩ Tường dạy văn học Pháp ở Trường Bưởi. Trong 11 năm (1934-1945), Nguyễn Văn Huyên công bố 46 công trình, tổng cộng gần 2.000 trang sách. Ông trở thành uỷ viên thường trực của trung tâm Đông phương học nổi tiếng này.

Được bạn bè giới thiệu, tiến sĩ Huyên làm quen với tiểu thư Vi Kim Ngọc, con gái cụ Vi Văn Định, Tổng đốc tỉnh Thái Bình.

- Trở về Hà Nội, anh Huyên dành dụm được ít tiền mua được chiếc xe ô-tô Renault màu xám nhạt và bắt đầu tập lái - tiến sĩ Tường kể lại. -  Đã có lần hai bánh xe bên phải leo lên trên vỉa hè một quãng dài, rồi mới chịu trở lại lăn giữa lòng đường! Lái ô-tô chưa thạo, thế mà cứ vào chiều thứ bảy, khi tôi vừa dạy xong ở Trường Bưởi, là anh ấy lại lôi tôi lên xe, bắt tôi “tháp tùng” anh ấy xuống Thái Bình gặp chị Vi Kim Ngọc, ý trung nhân của anh ấy…

Năm 1936, tiến sĩ Nguyễn Văn Huyên kết hôn với tiểu thư Vi Kim Ngọc, lúc bấy giờ mới 20 tuổi. Đến năm 1946, hai ông bà đã sinh được bốn người con.

Tiếng súng kháng chiến nổ rền. Quen cuộc sống “ô-tô, nhà lầu”, thế mà hai “ông nghè Tây” nhẹ nhàng rời bỏ “Hà Nội vàng son”, đi tham gia chống Pháp. Tiến sĩ Huyên cùng vợ con tản cư lên làng ải, huyện Chiêm Hoá, Tuyên Quang, cùng sống với gia đình hai giáo sư Hồ Đắc Di và Tôn Thất Tùng. Tiến sĩ Tường vào dạy học ở Thanh Hoá.

Tham gia Chính phủ Cụ Hồ, phương tiện công “sang nhất” mà Bộ trưởng Huyên được phép sử dụng là một chiếc xe đạp Sterling. Mỗi lần ông đi công tác xa, bao giờ bà Huyên và mấy người con cũng theo ông đến tận đầu dốc làng ải, đứng dõi theo bóng ông cùng người cần vụ, mỗi người một  chiếc xe đạp, khuất hẳn sau lùm cây xa, rồi mới lặng lẽ quay trở về làng, mắt đẫm lệ biệt ly.

Năm 1951, Trường Sư phạm cao cấp liên khu Bốn khai giảng khoá đầu tiên ở Thanh Hoá. Bộ trưởng Huyên đạp xe từ Việt Bắc vào thăm trường và nghỉ lại trong nhà giáo sư Nguyễn Mạnh Tường, người bạn thuở “hàn vi”, nay làm phó giám đốc trường này.

- Thời kháng chiến - giáo sư Tường kể - có lần tôi đi xe đạp từ Hà Tĩnh ra Thanh Hoá, khoảng 170 cây số, thế mà khi ra gần tới nơi, mệt quá, ngã nhào xuống dòng nông giang, bất tỉnh! Nếu không có người đi đường trông thấy, kịp vớt lên đưa đi cấp cứu, thì chắc đã hết đời rồi!… Thế mà anh Huyên đạp xe một mạch từ liên khu Việt Bắc qua liên khu Ba, vào liên khu Bốn! Đường Việt Bắc thì thật không thể tưởng tượng nổi! Rừng rú, bùn lầy, nhiều chỗ phải hai tay nâng chiếc xe đạp lên quá đầu người, lội qua suối, qua lầy. Đến Thanh Hoá, vào nhà tôi, mặt mày tái xanh tái xám, anh lăn ra nằm thở…

Bà Tống Lệ Dung, vợ giáo sư Tường, cho biết thêm:

- Từ ngày rời nhà đi kháng chiến, anh Huyên sống giản dị như dân quê. Tôi nhớ khi anh lên cơn sốt rét, thật thương anh không thể tả! Đang ăn cơm, bỗng anh hỏi tôi: “Chị còn nước rau muống nữa không?”

Ông Dương Xuân Nghiên, nguyên Chủ tịch Công đoàn Giáo dục Việt Nam, kể thêm:

- Thời chống Pháp, ông Huyên hai lần đến thăm Trường Lương Ngọc Quyến ở Thái Nguyên ngay sau khi trường chúng tôi bị máy bay Pháp ném bom. Lần nào cũng chỉ với một chiếc xe đạp, phương tiện duy nhất và sang nhất của Chính phủ mà ông được quyền sử dụng. Dưới chân ngọn đồi thông, ông nói chuyện với thầy, trò chúng tôi. Bài nói của ông ngày ấy, đối với chúng tôi, là bài học đầu tiên về giáo dục dân chủ nhân dân. Hình ảnh “ông nghè Tây” từ bỏ tất cả cuộc sống đầy đủ tiện nghi dưới chế độ thực dân, phong kiến để đi theo kháng chiến với tấm lòng son sắt thuỷ chung, có sức thuyết phục sâu xa, giúp chúng tôi vững tin rằng con đường cách mạng mà mình lựa chọn là con đường duy nhất đúng.

Không chịu đổi huân chương

Năm 1948, giáo sư Tôn Thất Tùng được Chủ tịch Hồ Chí Minh chỉ định làm Thứ trưởng Bộ Y tế. Mỗi tháng một lần giáo sư đến Tân Trào họp Hội đồng Chính phủ do Bác Hồ chủ toạ, đạp chiếc xe Peugeot đi, về khoảng 200 cây số.

Năm 1949, giáo sư Đặng Văn Ngữ từ Tokyo trở về Việt Bắc qua đường Thái-lan, mang theo hai chủng nấm Penicillin và Streptomicin. Đến Trường đại học Y ở Chiêm Hoá, giáo sư Ngữ tỏ ý muốn sản xuất chất kháng sinh dạng bột. Giáo sư Tùng khuyên nên làm kháng sinh dạng nước lọc (filtrat) vì giữa rừng, thiếu thốn đủ thứ, rất khó làm dạng bột. Chỉ cần nuôi nấm trong dung dịch ngô để nó tiết ra chất kháng sinh, rồi đem lọc, ta sẽ có filtrat mà tác dụng trên vết thương không kém gì kháng sinh bột. Giáo sư Ngữ đồng ý. Nhân danh Thứ trưởng Bộ Y tế, giáo sư Tùng cho cất nhà xưởng, lập ê-kíp giúp giáo sư Ngữ và đề nghị bên Quân y làm loại lọ đặc biệt để nuôi nấm.

Trong việc này, đã có lần giáo sư­ Tùng mất ăn mất ngủ vì tính chủ quan của một vài ngư­ời phụ tá. Hai chủng nấm Penicillin notatum và Streptomicin để trong rừng dễ bị môi trường gây ô nhiễm, cho nên trước khi dùng, phải đem cấy lại. Thế nhưng mấy người này lại cứ bảo là chẳng việc gì đâu! Đến khi đem nấm Penicillin ra dùng thì, chao ôi, nó đang chết dở vì bị các loại nấm dại khác ở rừng Việt Bắc ồ ạt tiến công! Hai giáo sư phải mất một tháng trời để gây lại chủng Penicillin tinh khiết. Hú vía!        

Từ đấy, mỗi chiến dịch Quân y cử một tổ penicillin đi theo bộ đội để sản xuất kháng sinh dùng ngay tại mặt trận. Đây là một thành tích diệu kỳ. Bởi vì, cho tới lúc bấy giờ, trong điều kiện chiến tranh du kích, với dụng cụ thô sơ giữa rừng sâu, chưa một ai trên thế giới làm được như vậy.

Đánh giá thành công này, một hôm họp Hội đồng Chính phủ, Bác Hồ nói với giáo sư Tùng:

- Bác cho phép chú chọn một loại huân chương nào mà chú muốn. Chú tự bình bầu đi!

Vì giáo sư Ngữ đã được tặng Huân chương Kháng chiến hạng ba, cho nên giáo sư Tùng cũng chỉ đề nghị được như vậy.

Vài hôm sau, vào một buổi tối, Bác mời các vị trong Hội đồng Chính phủ đến dự một bữa cơm thịt gà để trao huân chương. Bác nói:

- Chú Tùng là một ci-devant mà nay được Chính phủ kháng chiến tặng huân chương. Chú phải cố gắng hơn nữa!

Ci-devant là danh từ xuất hiện thời Cách mạng Pháp 1789 để chỉ  người trong hoàng tộc.

Nhiều năm sau, kể lại chuyện xưa, giáo sư Tùng viết trong hồi ký: “Đây là kỷ niệm đẹp nhất đời tôi. Sau này, về Hà Nội, Bộ Y tế đề nghị tôi đổi tấm Huân chương Kháng chiến hạng ba này lấy hạng nhất, nhưng tôi từ chối! Bởi lẽ đây là tấm huân chương duy nhất, trong số năm huân chương mà tôi có, được Bác Hồ tận tay trao cho giữa rừng sâu Việt Bắc, một vinh dự mà tôi nằm mơ cũng chẳng thấy...

Cuốc bộ cả năm dọc chiều dài đất nước

Năm 1949, tiến sĩ Lê Văn Thiêm trở thành người Việt Nam đầu tiên được mời làm giáo sư toán học và cơ học tại Đại học Bách khoa Zurich (Thuỵ Sĩ). Nhưng rồi cuộc sống êm đềm sung túc ở cái thành phố xinh đẹp ấy chẳng níu kéo vị giáo sư người Việt được lâu.

Cuối năm 1949, bằng số tiền dành dụm được sau mấy tháng dạy học, giáo sư­ Thiêm mua vé máy bay đi Băng-cốc, từ chối lời mời sang Mỹ làm việc với đồng lương hậu hĩ và triển vọng phát triển tài năng. Từ Thái-lan, ông cuốc bộ xuyên rừng qua đất Campuchia, lúc bấy giờ đang bị Pháp chiếm đóng, về vùng bưng biền Nam Bộ, căn cứ địa kháng chiến. Tháng 3-1950, ông được kết nạp vào Đảng Cộng sản Đông Dương. Hai tháng sau, theo chủ trương của Chính phủ kháng chiến, ông lên đường ra Việt Bắc, chuẩn bị thành lập Trường Khoa học cơ bản và Trường Sư phạm cao cấp trung ương để kịp thời đào tạo nhân tài cho công cuộc xây dựng đất nước sau ngày kháng chiến thành công - một chủ trương nhìn xa, sáng suốt.

Giờ đây, sau gần sáu thập niên, ngồi viết những dòng này, trước tấm bản đồ Việt Nam trải rộng, tôi cố dõi theo chuyến đi của nhà toán học 31 tuổi Lê Văn Thiêm - chuyến đi nghìn dặm dọc theo chiều dài đất nước, từ miền tây Nam Bộ ra đến tận huyện Chiêm Hoá (Tuyên Quang) để gặp Bộ trưởng Bộ Quốc gia Giáo dục Nguyễn Văn Huyên và Tổng Giám đốc Vụ Đại học Hồ Đắc Di. Một niềm cảm phục sâu xa dâng trào trong lòng tôi, niềm cảm phục đối với thế hệ trí thức tiên phong của nước Việt Nam kháng chiến - những con người không mảy may toan tính cho danh lợi cá nhân. Trên con đường vòng vèo dài hơn 2.500 cây số ấy, vị giáo sư trẻ tuổi đã phải vượt qua bao ngọn đèo, con suối, dòng sông, băng qua bao đồn bốt địch, bao lần bị máy bay Pháp bắn phá! Phải mất gần một năm trời đằng đẵng, mới đặt chân đến miền “đất thánh” Tuyên Quang!

Đến Chiêm Hoá, giáo sư Thiêm được bổ nhiệm làm Hiệu trưởng của cả hai trường Khoa học cơ bản và Sư phạm Cao cấp trung ương.

Hôm ấy, giáo sư Thiêm tìm tới một gian nhà lá giữa ATK, gặp giáo sư Tạ Quang Bửu, Thứ trưởng Bộ Quốc phòng. Và ông ghi lại cảm tưởng của mình: “Tôi xiết bao kinh ngạc và thú vị khi thấy, tuy ngập chìm trong công việc, anh Bửu vẫn dành thời  gian đọc khá nhiều cuốn sách toán hiện đại qua tiếng Đức, tiếng Pháp, tiếng Anh....”.

Hình ảnh cao đẹp của giáo sư Thiêm trở thành “thần tượng” đối với thầy giáo Hoàng Tuỵ, lúc bấy giờ mới 23 tuổi, đang dạy toán tại Trường phổ thông cấp ba Lê Khiết ở Quảng Ngãi, liên khu Năm. Anh Tuỵ liền viết đơn đề nghị Sở Giáo dục liên khu cho phép anh ra Việt Bắc, thụ giáo thầy Thiêm. Được Sở đồng ý, anh liền rời Quảng Ngãi lên đường đi Tuyên Quang. Con đường dọc Trường Sơn thuở ấy mới chỉ là một lối mòn nhỏ hẹp nhưng được tổ chức rất tốt. Cứ mỗi chặng 30 cây số lại có một trạm nghỉ đêm và có giao liên dẫn đường cho cán bộ, bộ đội đi tiếp ngày hôm sau. Anh Tuỵ mang theo trong ba-lô gạo, muối, sách và thuốc, quý nhất là vitamin B1 chống phù thũng và quinine chống sốt rét. Ăn cơm với muối ngày này qua ngày khác. Ba mối nguy hiểm chết người là: bị địch phục kích, bị hổ vồ, và bị sốt rét ác tính. ở vùng U Bò, Ba Rền có con hổ từng ăn thịt mấy chục người nhưng ta không dám nổ súng bắn vì sợ bị lộ, địch cho máy bay đến ném bom. Có anh cán bộ đi cuối đoàn, trật dép, đứng lại, cúi xuống rút dép, thế là bị hổ tha vào rừng!...

Anh Tuỵ đến Tuyên Quang thì thầy Thiêm đã sang Nam Ninh (Quảng Tây, Trung Quốc) làm việc tại Khu Học xá của ta trên đất bạn. Thế là anh đi tiếp sang Nam Ninh và được thầy Thiêm mời làm trợ giảng.

Lê Văn Thiêm và Hoàng Tuỵ là hai nhà toán học Việt Nam được Nhà nước ta phong tặng Giải thưởng Hồ Chí Minh đợt 1 vào năm 1996 về những công trình toán học đặc biệt xuất sắc.

Có thể bạn quan tâm