Nhiều tiến bộ trong chẩn đoán và điều trị bệnh lý hậu môn trực tràng

NDO - Ngày nay có nhiều phương tiện chẩn đoán hiện đại được áp dụng để phát hiện sớm các bệnh lý vùng hậu môn trực tràng như: siêu âm nội soi, chụp cắt lớp vi tính, chụp MRI bụng chậu…
0:00 / 0:00
0:00
Quang cảnh Hội nghị khoa học toàn quốc lần thứ XI của Hội Hậu môn trực tràng
Quang cảnh Hội nghị khoa học toàn quốc lần thứ XI của Hội Hậu môn trực tràng

Ngày 19/10, tại Hà Nội, Hội Hậu môn trực tràng Việt Nam tổ chức Hội nghị khoa học toàn quốc lần thứ XI năm 2024 với sự tham gia của các chuyên gia hàng đầu, các nhà khoa học, các bác sĩ chuyên khoa hậu môn trực tràng của các cơ sở y tế quân dân y trên cả nước.

PGS,TS Lê Mạnh Cường, Phó Giám đốc Học viện Y học cổ truyền Việt Nam, Chủ tịch Hội hậu môn trực tràng Việt Nam cho biết các diễn giả hội nghị sẽ trình bày những nghiên cứu mới nhất, các kết quả ứng dụng kỹ thuật tiên tiến, những kinh nghiệm trong chẩn đoán và điều trị bệnh lý hậu môn trực tràng và có kết hợp đào tạo liên tục. Hội nghị sẽ góp phần nâng cao chất lượng chẩn đoán, điều trị và chăm sóc người bệnh, thúc đẩy sự phát triển chuyên ngành y học này ở nước ta.

Bệnh lý vùng hậu môn trực tràng là một trong những bệnh lý thường gặp trong cuộc sống hiện nay và đang có xu hướng gia tăng, từ các bệnh lý tưởng là đơn giản như trĩ, táo bón, không đại tiện được... đến các bệnh lý phức tạp hơn như ung thư hậu môn, ung thư trực tràng. Nếu không được phát hiện, điều trị kịp thời, bệnh sẽ gây những biến chứng, thậm chí nguy hiểm đến tính mạng.

Nhiều tiến bộ trong chẩn đoán và điều trị bệnh lý hậu môn trực tràng ảnh 1

Bác sĩ đánh giá, tư vấn điều trị cho một người bệnh

Các nghiên cứu cho thấy bệnh lý ung thư đại trực tràng chiếm 10% các bệnh lý về ung thư; bệnh trĩ ảnh hưởng gần 50% dân số… Phần lớn bệnh lý hậu môn trực tràng (ngoại trừ ung thư) thường không gây nguy hiểm tới tính mạng con người, nhưng gây đau nhức, khó chịu, lo âu cho người bệnh, làm giảm khả năng làm việc và tham gia các hoạt động xã hội, ảnh hưởng trực tiếp đến sức khỏe cũng như cuộc sống sinh hoạt hằng ngày. Nếu không được phát hiện sớm, chẩn đoán điều trị đúng và kịp thời, bệnh sẽ biến chứng trở nên trầm trọng và nguy hiểm.

Đáng chú ý, hiện nay, bệnh lý hậu môn trực tràng đang được điều trị hiệu quả bằng kết hợp y học hiện đại với y học cổ truyền, điều trị nội khoa, phẫu thuật, thủ thuật và vật lý trị liệu phục hồi chức năng; kết hợp dùng thuốc đặc hiệu với các phương pháp tiên tiến. Ngày nay có nhiều phương tiện chẩn đoán hiện đại được áp dụng để phát hiện sớm, chính các các bệnh lý vùng hậu môn trực tràng: siêu âm nội soi, chụp cắt lớp vi tính, chụp MRI bụng chậu, đo áp lực ống hậu môn…

Trong công tác dự phòng, chẩn đoán và điều trị các bệnh lý hậu môn trực tràng, Việt Nam đã áp dụng các kỹ thuật mới nhất của thế giới; kết hợp y học hiện đại với y học cổ truyền; hợp tác các tổ chức quốc tế để cập nhật kỹ thuật mới mang lại nhiều lợi ích và hiệu quả cho người bệnh.

Nhiều tiến bộ trong chẩn đoán và điều trị bệnh lý hậu môn trực tràng ảnh 2

Nhiều cơ sở y tế tại Việt Nam đã làm chủ các kỹ thuật tiên tiến trong điều trị các bệnh hậu môn trực tràng

Các kỹ thuật ít xâm lấn và thủ thuật đã được áp dụng giúp giảm thiểu đau đớn, rút ngắn thời gian hồi phục cho bệnh nhân, bao gồm: phẫu thuật nội soi và sử dụng robot để cắt polyp, cắt khối u đại trực tràng; sử dụng Argon plasma cầm máu và điều trị các tổn thương niêm mạc; sử dụng laser giảm kích thước búi trĩ; thắt trĩ bằng vòng cao su; đốt trĩ bằng sóng cao tần, xung điện trực tiếp; điều trị trĩ bằng quang đông hồng ngoại, tiêm xơ…

Từ thực tế quá trình khám và điều trị cho người bệnh, PGS,TS Lê Mạnh Cường cho rằng việc kết hợp y học hiện đại và y học cổ truyền trong điều trị các bệnh lý về hậu môn trực tràng có hiệu quả rất tốt. Phương pháp y học cổ truyền được đánh giá dựa trên các triệu chứng lâm sàng, được chỉ ra tính hiệu quả của các liệu pháp như dùng thuốc thảo dược và các bài thuốc cổ truyền, với nhiều bài thuốc phù hợp với từng thể bệnh, từng phân loại cụ thể gắn kết chặt chẽ với thể trạng của người bệnh, đồng thời chú trọng đến việc cải thiện sức khỏe tổng quát của bệnh nhân.