Chân dung văn học

Nhà thơ Đoàn Văn Cừ - Vun gốc hồn dân tộc


Lối rẽ vào thôn Đô Đô (Nam Lợi, Nam Trực, Nam Định) có một cây gạo to. Tiết tháng Ba hoa gạo nở đỏ rực một góc trời. Con đường nhỏ vắt ngang đồng lúa đang thì con gái xanh mơn mởn. Tiếng thoi dệt vải lách cách.

Nhà ông Cừ đấy. Để hòa nhập vào cuộc sống hiện tại nó có một chiếc cổng sắt mầu xanh dương. Còn lại vẫn như cái thuở ông về đây ở ẩn. Góc vườn với cây nhãn già. Nó đã già lắm nên hoa ít. Nếp nhà chính ba gian lợp ngói. Nhà dưới vẫn nền đất. Ông ngồi trên giường trong một gian buồng. Chung quanh ông toàn là sách và sách. Một tập giấy trắng có dòng kẻ ông để ngay ngắn ở đầu giường. Từ năm 1999 ông bị gãy chân, rồi nó không lành được nữa. Vậy là thế giới của ông chỉ là khoảng trời trước nhà và những bài thơ và những hoài niệm về trang viết.

Ông cười khà khà bảo chúng tôi: - Bút đàm! Tai tôi điếc lắm rồi không nghe được nữa.

Tôi viết lên giấy. Cháu là Y Ban, phóng viên báo Giáo dục và Thời đại . Ông giơ tờ giấy ra gần phía ngoài cửa. Ông đọc bằng đôi mắt đã 91 tuổi không cần đến sự trợ giúp của kính lão và điện. Điện bị mất năm hôm rồi. Đọc xong ông cười khà khà.

Ông bảo: - Y Ban đấy hử. Có phải là Y Ban mà người ta hay nhắc đến không? Tôi gật đầu.

Ông nói: - Văn chương không tri kỷ như quế thơm thành củi mục. Rồi ông lại cười khà khà. Ông còn tường anh lắm. Tôi thở phào. Tôi đã nghĩ mình chậm.

Tôi lại viết lên giấy: - Thưa ông, ông đã viết "Chợ Tết" vào năm nào và những kỷ niệm chung quanh bài thơ này.  Ông còn nhớ không?

Ông vừa xem tờ giấy tôi viết vừa gật gù:

- Viết vào khoảng năm 1938, đến mùa xuân năm Kỷ Mão thì được đăng. Khi ấy tôi đã đỗ đạt rồi nhưng vẫn chỉ là một hàn sĩ, một hàn sinh. Đã viết được báo bằng tiếng Pháp. Đã viết văn, đã nghiên cứu... rồi nảy ra được thì chỉ có thơ. Tôi đã đi xin việc trên thành phố nhưng không được mới trở về quê làm hương sư. Giống như Tú Xương ấy, nếu thi đỗ thì đi làm quan cơ. Hương sư chỉ hơn gia sư một tí. Gia sư thì được gia đình người ta nuôi ăn rồi đến vụ trả bằng thóc. Còn hương sư thì được trả bằng tiền nhưng ít lắm, chỉ năm đồng sau mới lên bảy đồng. Hương sư là bước đường cùng thôi. Tôi gửi bài thơ đi bảy, tám tháng thì có anh bạn gặp bảo đã đọc bài thơ của tôi trên báo Ngày nay . Mấy ngày sau thì tôi nhận được báo biếu và nhuận bút 8 đồng mua được 40 thùng thóc.

- Ông đã lấy những hình ảnh phiên chợ tết quê mình để viết bài thơ Chợ Tết phải không? Tôi hỏi.

- Phải vậy cũng không phải vậy. Ông trả lời. Từ năm tám tuổi tôi đã thích theo mẹ đi chợ. Có những chợ ở cạnh sông, lại có những chợ ở bên núi. Chợ ở giữa trời đất. Những cái chợ đấy có cả ở Bắc Giang, Bắc Ninh, Việt Trì... chứ đâu chỉ có ở quê mình. Cái chợ này là hồn vía của người Việt Minh ở miền bắc. Mấy năm trước bên làng Lao có một đoàn người sang gặp tôi bảo rằng đó chính là phiên chợ của làng họ. Họ xin phép tôi cho khắc đá bài thơ.

- Sau này ông có viết thơ về chợ tết nữa không? Lại hỏi.

- Cũng có. Như bài này: Đoàn thuyền gắn máy cân hàng tết/ Lợn béo gà to ngập bến hồng.

- Hoài Thanh có nhận xét rằng ông sống có nghệ thuật...

- Cho đến năm 1946 chúng tôi mới gặp nhau. Vui lắm. Hoài Thanh mời tôi về nhà ăn cơm. Tôi rất thích đẹp. Thời ấy có loại giấy hồng rất đẹp. Tôi viết thơ trên giấy hồng gửi cho Hoài Thanh. Sau khi Thôn ca được in tôi đã làm tấm danh thiếp bằng tiếng Pháp: "Đoàn Văn Cừ. Thôn ca". Chứ không phải là hương sư.

- Có nhà phê bình văn học nhận định rằng: Đoàn Văn Cừ làm thơ bằng mắt? Điều đó có đúng không?

- Tôi vận dụng luận điểm "Thi trung hữu họa " trong sáng tác của tôi. Tức là gây ấn tượng thị giác phản ánh nội dung vấn đề đối tượng miêu tả.

- Ông quan niệm bản sắc dân tộc như thế nào?

- Bản sắc dân tộc quan trọng lắm. Nhưng không phải nó chỉ nằm trong cái ta nhìn thấy mà nó nằm cả trong cái ta không nhìn thấy. Như cỏ cây mọc ở Việt Nam thì nó là cỏ cây của Việt Nam rồi.

- Bây giờ siêu thị nhiều hơn chợ quê, ông có luyến tiếc điều đó không?

- Cái đẹp phải có thời của nó không thể dậm chân tại chỗ. Cái thời trước là chợ quê, còn thời nay là siêu thị. Lớp trẻ hiện đại thì thích siêu thị. Nhưng với tôi thì lại thấy siêu thị văn minh thật nhưng không rực rỡ.

- Ông có đọc thơ hiện đại không? Ông có nhận xét gì?

- Thơ hiện đại tứ hay lắm mới lắm. Khẩu vị của độc giả thay đổi thì thơ cũng phải thay đổi. Nhưng bài nào đẹp thì nổi bật ngay.

- Nhưng thơ hiện đại đọc không dễ thuộc. Ngay cả các nhà thơ mà cũng không thuộc thơ mình. Trong khi thơ ông thì rất dễ thuộc...

- Tôi vẫn nhớ hết 40 bài thơ trong Thôn ca . Nói rồi ông đọc: Chùa xóm làm ngay ở mé ngòi/ Ngày tết lên chùa cúng gà xôi/ Cúng xong các cụ chia gà béo/ Bốn cụ ngồi trên chia bốn đùi.

- Ông có làm được thơ hiện đại không?

- Cũng có cố gắng làm nhưng tuổi già rồi thua nhà thơ lớp trẻ. Tôi thích hai câu thơ này: Cha già rồi cha xin làm bệ phóng/ Cho đời con tên lửa vượt trời xanh.

- Sau Cách mạng tháng Tám ông đi bộ đội, hòa bình lập lại làm biên tập ở một nhà xuất bản. Từ năm 1971 ông lại quay về với quê hương để ẩn cư. Vì sao ông không sống ở thành phố bởi khi trẻ nếu ông xin được việc ở thành phố thì ông đã sống ở đó ? Tôi hỏi.

- Đó là cách sống của tôi. Khi tôi đi bộ đội cũng là do ý tôi. Tôi rất quý những tấm lòng bạn bè như nhà thơ Huy Cận. Khi Cách mạng tháng Tám thành công, anh ấy là Bộ trưởng Bộ Canh nông, bảo với tôi "không thể làm hương sư được. Anh là nhà thơ của cả nước, anh phải là giáo viên chính ngạch nhà nước". Sau đó có giúp tôi nói với ông Cao Văn Tỉnh bên giáo dục để thi tuyển. Tôi đã thi đỗ nhưng lại đi bộ đội. Tôi sống theo cách của tôi thì tôi chết cũng theo cách của tôi.

- Ông ơi, tại sao ông lại viết thư cho Hội nhà văn nói rằng ông không nhận báo và sách của Hội theo tiêu chuẩn hội viên ?

Ông lặng người khi đọc câu hỏi. Rồi ông khóc. Một lúc ông lấy trong hộp ra chiếc kính lúp giơ cho tôi xem, rồi nói:

- Bây giờ đọc báo phải dùng đến cái này, mệt lắm rồi. Nhà thơ nhà văn chúng ta sống bằng gì? Bằng sách báo thơ văn. Hội ta rất nhân đạo đã cung cấp sách báo cho hội viên. Đã thăm hỏi khi ốm đau và chết thì viếng. Phần tôi mắt mờ khó xem nên trả lại kẻo phí.

Ông ngồi bần thần rất lâu rồi lấy ra một quyển sổ. Ông giở cho tôi xem những ghi chép rất cẩn thận. Ngày... Xuân Hoàng mất. Điếu văn đã được nhà thơ... đọc. Ngày... Nguyễn Đình Thi mất... Trần Hoàn mất... Ông gập quyển sổ lại cất cẩn thận vào hộp.

"Chỉ đến khi những nghệ sĩ đó chết tôi mới được biết trên báo chí chứ khi ốm đâu có biết. Mà nhiều người trong họ mắc bệnh đã lâu. Tôi có suy nghĩ thế này. Những nghệ sĩ cao tuổi đau ốm âm thầm không ai hay. Khi đột ngột ra đi không ai rõ/ Giường bệnh là chiến trường/ Đầu gục trên trang giấy tim ngừng đập. Cây bút vì đại nghĩa vẫn trên tay". Tôi có một ân hận thế này, trước khi ra đi không có lời hay đẹp nào để tặng cho bạn bè. Cả đời làm văn học đến khi nghĩ được câu tâm đắc cho bạn bè người thân đồng nghiệp thì không thực hiện được nữa. Tôi xin tặng Y Ban một câu thế này: Những giờ sống đích thực của nhà văn là trên trang viết.

- Thưa ông bây giờ ông đang nghĩ gì?

- Tôi nghĩ đến điều sống và viết. Kẻ sĩ thờ nước lấy phục vụ làm đại nghĩa, làm lẽ sống. Sự nghiệp hiếu trung quên năm tháng thành tuổi thọ.

Đã hai lần cô con dâu cả của ông ngó vào như nhắc nhở tôi thời gian. Tôi nhìn đồng hồ. Đã gần ba tiếng trôi qua. Tôi ngắm ông. Một con người cần mẫn sống. Sống có trách nhiệm với cuộc sống của chính mình.

Tôi muốn viết thêm một người. Người ấy là vợ nhà thơ. Bà tên là Nguyễn Thị Miều. Khi đề nghị bà cùng chụp chung một bức ảnh với ông, bà cười móm mém, già rồi chụp xấu lắm.

Bà đã làm cho cuộc sống của nhà thơ êm đẹp hơn. Năm nay bà 88 tuổi, chung sống với ông đã 64 năm.

* Thơ Đoàn Văn Cừ

Có thể bạn quan tâm