Nhà thơ - chiến sĩ Huỳnh Văn Nghệ

Có những câu thơ nhiều người trong chúng ta từng được đọc và khắc sâu trong tâm khảm, dẫu không nhớ tác giả là ai. Những câu thơ mang phong vị cổ, thấm đậm mối tình nam - bắc, rạng sáng niềm tự hào về nòi giống, non sông:

Ai về Bắc ta đi với
Thăm lại non sông giống Lạc Hồng
Từ độ mang gươm đi mở cõi
Trời Nam thương nhớ đất Thăng Long

(Hai câu sau có lúc được đọc là:
Từ thuở mang gươm đi mở nước
Ngàn năm thương nhớ đất Thăng Long)

Ðó là những câu thơ tiêu biểu trong bài thơ Nhớ Bắc. Tác giả là một nhà thơ - chiến sĩ mà tên tuổi từng gắn với những năm tháng oanh liệt của nhân dân miền Ðông Nam Bộ trong kháng chiến chống thực dân Pháp và đế quốc  Mỹ: Huỳnh Văn Nghệ.

Ông sinh ngày 2-1-1914 tại làng Tân Tịch, huyện Tân Uyên, tỉnh Biên Hòa (nay là xã Thường Tân, huyện Tân Uyên, tỉnh Bình Dương) trong một gia đình nghèo, giàu nghĩa khí. Cha là người thầy dạy võ can cường, tuy bị quan làng ngăn cấm nhưng vẫn bí mật truyền dạy võ cho thanh niên, bảo vệ người nghèo chống áp bức bất công.

Lớn lên, ông học rất giỏi, được nhận học bổng của Trường trung học Pétrus Ký Sài Gòn và sớm được giác ngộ, tham gia các hoạt động cách mạng. Bắt đầu từ những năm 1936-1939, ông tham gia phong trào Ðông Dương Ðại hội ở Sở Xe lửa Sài Gòn, tham gia khởi nghĩa Nam Kỳ, sang Thái-lan hoạt động trong phong trào Việt kiều yêu nước và tổ chức xuất bản tờ báo Hồn cố hương, kêu gọi tinh thần yêu nước hướng về Tổ quốc, ủng hộ cách mạng của kiều bào.

Năm 1944, ông trở về nước, lập khu nghĩa quân Ðất Quốc tại Tân Uyên, được kết nạp Ðảng, lập Ðoàn Cựu binh sĩ và tham gia khởi nghĩa Cách mạng Tháng Tám, trực tiếp chỉ huy cướp chính quyền ở Biên Hòa rồi làm Chỉ huy trưởng lực lượng giải phóng quân Biên Hòa, chỉ huy nhiều trận đánh lớn, nhận nhiệm vụ Khu phó Khu VII kiêm Trung đoàn trưởng Trung đoàn 310. Tháng 7-1948, ông là Khu trưởng Khu VII, tham gia thành lập bộ đội chủ lực Khu (Bộ đội 303).

Năm 1950, sau khi sáp nhập Sài Gòn - Chợ Lớn vào Khu VII, ông trở thành Phó Tư lệnh Bộ Tư lệnh Khu, đồng thời là Ủy viên Ban Thường vụ Tỉnh ủy kiêm Tỉnh đội trưởng Thủ Biên, chỉ huy nhiều trận đánh lớn bảo vệ Bộ Tư lệnh Nam Bộ đóng ở chiến khu Ð. Tháng 5-1953, ông được cử ra bắc học và ở lại công tác, là Trưởng phòng Thể dục-Thể thao, Cục phó Cục Quân huấn, Bộ Tổng Tham mưu, Tổng cục phó Tổng cục Lâm nghiệp.

Năm 1965, ông được điều trở về Nam Bộ, lần lượt giữ các cương vị: Trưởng ban Căn cứ T.Ư Cục miền nam, Phó Bí thư Ðảng ủy Căn cứ T.Ư Cục miền nam, Phó Ban Kinh tài T.Ư Cục miền nam, Trưởng ban Lâm nghiệp T.Ư Cục miền nam. Sau ngày miền nam hoàn toàn giải phóng, ông là Tổng cục trưởng Tổng cục Lâm nghiệp miền nam, Thứ trưởng Lâm nghiệp. Ngày 5-3-1977, ông lâm bệnh nặng và mất tại Bệnh viện Thống Nhất, TP Hồ Chí Minh, thọ 63 tuổi.

Không chỉ là một chiến sĩ cầm súng kiên cường với cuộc đời hoạt động cách mạng oanh liệt, vẻ vang, Huỳnh Văn Nghệ còn là một cây bút tràn đầy nhiệt huyết trong các hoạt động báo chí, văn hóa, văn nghệ, đặc biệt ở lĩnh vực thơ ca. Cuộc đời, sự nghiệp của ông trải dài qua hai cuộc kháng chiến trường kỳ của dân tộc.

Có thể thấy từng bước đi, mỗi dấu ấn tâm hồn chân thực, xúc động của cuộc đời một nhà thơ - chiến sĩ qua những sáng tác còn để lại: Trận Mãng Xà, Mất Tân Uyên, Bờ sông bị chiếm, Hành quân, Một trận chống càn, Em bé liên lạc, Du kích Ðồng Nai, Xuân chiến khu, Chiến khu Ð chống bão, Nấm mộ giữa rừng...

Bên cạnh đề tài chiến đấu, tình cảm bắc-nam ruột thịt là một đề tài rất sâu nặng trong thơ ông. Trong kháng chiến chống thực dân Pháp, khi Nam Bộ đứng lên khởi nghĩa (ngày 23-9-1945), hàng nghìn người con miền bắc đã xung phong Nam Tiến. Sau phong trào Ðồng Khởi, bắt đầu cuộc đấu tranh vũ trang, lớp lớp người con miền nam trở về quê hương và những người con miền bắc lại lên đường Nam Tiến (đi B) chi viện tiền tuyến lớn.

Thơ Huỳnh Văn Nghệ nói nhiều đến tình cảm bắc - nam ruột thịt ấy. Từ năm 1937, anh thanh niên Sài Gòn đã có những câu thơ ngời ngợi tình cảm và chí hướng:

Ðưa tay chỉ lên trời cao trong vắt
Hai ngôi sao trong hai chòm sao Nam, Bắc
... Muốn làm sao ta có sợi dây đàn
Ðem giăng thẳng nối Nam Bắc

(Trăng lên)

Khi phác họa lại lịch sử quê hương mình, ông viết về cội nguồn, dòng chảy của con sông:

Có con sông cũng từ  hướng bắc
Vượt núi rừng ghềnh thác
Tràn vào Nam cuộn cả bóng mây cao

(Sông Ðồng Nai-1954)

Ðó còn là bài thơ Mẹ Nam con Bắc (1953) kể về tình mẫu tử sâu nặng của một bà má miền nam đã hành động dũng cảm, mưu trí để kẻ thù phải thả người con nuôi là anh lính miền bắc. Bị bom giặc sát hại, mẹ "chết không chịu nhắm mắt/Vì đợi mãi đứa con". 

Bài thơ Hình ảnh Bác trong lòng Nam Bộ (1960) nhắc lại những ký ức của nhà thơ về Bác Hồ trong kháng chiến chống thực dân Pháp, kể về một anh chiến sĩ bị thương đã lấy máu mình viết lên tường 5 chữ: "Thành phố Hồ Chí Minh". Hình ảnh Bác trở nên gần gũi, cận kề với mỗi con người, trong những bước chân, những tấm lòng người dân kháng chiến:

Theo dân đi kháng chiến
Khắp bưng biền rừng thẳm
... Trong ba lô chiến sĩ
Trong cặp vở học trò
Trong bức tranh họa sĩ
Trong vần điệu nhà thơ

Ðặc biệt, Bài Nhớ Bắc ông viết năm 1940 tại sân ga Sài Gòn với những câu thơ hào sảng chí khí, thấm đậm tình cảm của đồng bào, chiến sĩ miền nam hướng về thủ đô Hà Nội trong những năm dài kháng chiến gian nan, còn mãi  đọng lại trong tâm hồn nhiều thế hệ người dân, chiến sĩ, thi sĩ Việt Nam.

Có thể bạn quan tâm