Lúc đi học, ông được thầy đặt cho tên chữ là Tử Ngọc. Xuất dương lấy hiệu là Cảnh Sơn, có lúc đóng vai người Hoa với tên Nam Xương, trốn tù về nước đổi tên là Trần Văn Vẹn.
Sinh trưởng trong một gia đình cấp tiến, từ nhỏ, ông vừa theo Nho học vừa được học chữ Quốc ngữ với cụ Tú Tịnh, rồi cụ Tú tài Trần Hữu Thường. Ðầu thế kỷ 20, các phong trào Ðông Du, Duy Tân hoạt động sôi nổi trong cả nước, ông bắt đầu hoạt động cách mạng, cổ động cho Khuyến du học hội của Nguyễn Thần Hiến và truyền bá thơ văn yêu nước, liên kết bạn bè.
Năm 1913, ông dẫn đầu một đoàn thanh niên, trong đó có nhiều người Cao Lãnh xuất dương. Sang Hồng Công được ba tuần thì ông bị bắt giải về giam ở Hà Nội và bị kết án 10 năm tù. Năm 1914, ông bị đày đi Guyan; lúc ấy là thuộc địa của Pháp ở Nam Mỹ cùng với một số người khác.
Năm 1917, ông trốn tù qua Trimitê, một quần đảo của Anh, vào làm công cho hiệu buôn người Hoa và đóng vai người Hoa. Năm 1920, ông qua Trung Quốc, khi đến Hồng Công và Quảng Châu, thấy phong trào im ắng, ông lên Tứ Xuyên làm công cho một hiệu thuốc. Quả bom Phạm Hồng Thái năm 1924 khởi dậy phong trào mới, ông trở lại Quảng Châu hoạt động.
Những năm 1925 -1926, cuộc đấu tranh đòi thả Phan Bội Châu và truy điệu Phan Chu Trinh nổi lên rầm rộ. Ðầu năm 1927, ông trở về nước. Ðến Sa Ðéc, ông thông tin cho vợ con hẹn điểm thăm rồi từ giã luôn để đi hoạt động không về nhà.
Ông len lỏi khắp nơi tìm gặp bạn bè quen thuộc, nhưng vì vẫn theo đường lối chính trị và phương pháp vận động cũ, không bắt kịp phong trào mới của giai cấp công nhân, nên không thu được kết quả đáng kể.
Tuy nhiên, những cuộc đấu tranh vang dội vào những năm 1929-1930 trong cả nước ở ngay tại Cao Lãnh quê ông tác động mạnh đến nhận thức của ông. Cũng những năm ấy, ông bị thực dân theo dõi, lùng bắt gắt gao, phải lẩn tránh nhiều nơi, qua tận Campuchia. Cuối cùng, nhờ lòng hào hiệp của các nhà yêu nước ở làng Vĩnh Hòa (Tân Châu), một làng giáp biên giới Việt Nam - Campuchia, năm 1932, ông dừng chân dạy học.
Mấy năm sau, ông qua đời tại đó (15-5 âm lịch 1936), vì bệnh thương hàn. Ông đã để lại cho những người thân, các đồng chí và học trò của ông một cái tang chung thật thống thiết.
Vì tình thế nên ông chết trong im lặng. Nhân dân đã làm câu đối, thơ văn khóc ông thật nhiều, xin dẫn một bài tiêu biểu:
Tìm đâu mà thấy cố nhân ta?
Tử Ngọc cõi trần đã lánh xa
Nhớ trước Canh Thìn năm xuất thế
Tính nay Bính Tý tuổi quy bà
Tâm sự đầu đuôi bao xiết kể
Thương cho đất khách gởi xương già.
Và câu đối của các đồng chí điếu:
- "Ngót hai mươi năm dư, hồ hải từng quen Âu - Á - Mỹ.
Vừa năm mươi tuổi lẻ, dạ đài còn tạc Hiếu - Trung - Cang".
Ông là một nhà cách mạng có tài thơ văn. Ông làm thơ, viết văn là để làm cách mạng.
Ðương thời truyền rằng thơ văn ông có đến hàng nghìn bài, nay chỉ còn sưu tập được hơn trăm bài chữ Hán có, chữ Nôm có, gồm đủ thể loại, nhiều nhất là thơ Ðường luật (7 chữ, 8 câu). Có thơ tuyên truyền vận động chính trị; có thơ nhân cảnh, nhân việc mà bày tỏ thái độ, nhắc nhở, xót thương, hoặc cười chê đả kích, có khi chỉ cười vui; có thơ chỉ nói riêng phận mình và hầu như không có loại vần điệu phù phiếm.
Với một nội dung quán xuyến toàn bộ, nổi bật, khắp nơi, thấm nhuần mọi chỗ là tấm lòng yêu nước thiết tha, luôn luôn sôi nổi nhiệt tình và canh cánh hoài bão độc lập, tự do cho Tổ quốc và nhân dân. Cụ thể như lúc ông trú ngụ ở Núi Sam (năm 1929), bị lính kín Tây tìm bắt từng ngày, ông phải lẩn tránh về Tân An. Trước khi đi, ông viết bài thơ:
Muôn vật đều còn để dấu roi
Buồn cười thân chó chết rồi thôi
Ân cần mãn kiếp ba ân mọn
Thóa mạ nghìn năm một tiếng đời
Nổi trống gặp hùm xua rắn đuổi
Hang sâu hết thỏ nấu chàng xơi
Ai ơi! Phải biết ngời hơn vật
Chớ để mày râu thẹn đất trời!
Cũng có lần tại Vĩnh Hòa, ông đang đau, khi tắm bị cá nóc khoét, ông liền mượn hình tượng đó, làm thơ xa gần châm biếm bọn tham ô bòn hút máu thịt đồng bào giữa cơn tai nạn:
Ðộc địa thay lũ cá nóc bầu
Cắn ai thì chớ, cắn thằng đau
Bụng to nỡ chẳng dung già trẻ
Răng bén đành không kể trước sau
Ngứa miệng phá tan chài lưới chúng
Ðói lòng khoét lún giống nòi nhau
Nhờ hơi máu thịt no nê vậy
Có thuở chày săng giã nát đầu!
Mỗi bận xuân về, tết đến, ông nhìn thấy nỗi nhục mất nước khi chỉ được treo cờ Pháp, còn cờ Việt Nam không treo được, ông cảm tác bài: "Ngày Tết, thấy cờ cảm tác" để nói lên nỗi xót xa, day dứt:
Trông thế lực người sôi máu mắt
Nghĩ danh giá nước thẹn mày râu.
Thơ ca của ông chân thành rất mực. Ðó là điểm nổi bật về phẩm chất. Một điều đáng chú ý nữa là tuy không ra ngoài những điều cơ bản của văn mạch phía nam Tổ quốc về tâm lý và ngôn ngữ, nhưng nhờ ông có đọc "tân thư", có đi nước ngoài, biết nhiều thứ tiếng, tầm mắt mở rộng, nên thơ ca ông có những bước tiến so với thơ ca yêu nước Nam Kỳ thế kỷ trước. Lời thơ trau chuốt hơn, khuôn khổ hơn, đôi khi lại pha chút hóm hỉnh, nhiều lúc vẫn đột xuất những lời, những ý độc đáo, táo bạo.
Thơ ca ông thuộc dòng văn học cách mạng theo đường lối dân chủ tư sản đầu thế kỷ 20. Một số bài vào cuối cuộc đời ông, đã thể hiện rõ nét nội dung cách mạng với mầu sắc đấu tranh giai cấp. Nó đã góp một tiếng nói có giá trị vào công cuộc đấu tranh của dân tộc trong một giai đoạn lịch sử nhất định.
Rất tiếc ông là một viên ngọc sáng giá với một sự nghiệp thơ ca có tầm cỡ, một tác giả quý hiếm như vậy nhưng chưa được tìm hiểu chu đáo để kế thừa và bổ sung cho văn học Nam Bộ, làm phong phú thêm một giai đoạn lịch sử văn học vẻ vang nước nhà những năm đầu thế kỷ 20.