Người xã Xốp

Nhân vật chính trong truyện ngắn nổi tiếng Rừng Xà nu của nhà văn Nguyễn Trung Thành chính là nhân dân, một nhân dân đông đảo, đứng thẳng, có sức sống mãnh liệt không ai diệt được như chính rừng xà nu. Chúng tôi đã tìm về xã Xốp (Kon Tum), nguyên mẫu làng Xô Man trong tác phẩm văn học, tìm về những nhân vật trong truyện ngắn, với nhân dân kiên trung và bất khuất, che chở và trọn đời theo Ðảng, theo cách mạng.

Tác giả (thứ hai từ phải sang) gặp gỡ A Nghiêm, A Nhóa, A Bố là người dân xã Xốp, huyện Ðác Glây, tỉnh Kon Tum.
Tác giả (thứ hai từ phải sang) gặp gỡ A Nghiêm, A Nhóa, A Bố là người dân xã Xốp, huyện Ðác Glây, tỉnh Kon Tum.

Sau Hiệp định Giơ-ne-vơ (năm 1954), Mỹ - Diệm không những không thực hiện các điều khoản có giá trị pháp lý quốc tế mà còn lê máy chém đi khắp miền nam. Với đồng bào Thượng ở Tây Nguyên, chúng còn kích động nạn "đòi đầu" để kích động sự mất đoàn kết giữa các làng như ở Nông Kon, Mang Ram và tuyên bố: "Ai nuôi cộng sản thì cả làng bị giết; ai bắt được Việt cộng chặt đầu đem nộp thì được thưởng". Trong cuốn "Lịch sử truyền thống đấu tranh cách mạng của Ðảng bộ và nhân dân huyện Ðác Glây" xuất bản năm 2010 có đoạn viết: "Nhiều nơi như làng Núi Vai, Ðăk Pung, Măng Lol, xã Ðoàn, xã Xốp (hay Soáp) bị địch càn quét, đánh phá uy hiếp nhưng nhân dân vẫn không khuất phục, không chịu sống hợp pháp dưới chính quyền địch. Trước tình hình đó, để giữ thế hợp pháp cho dân, tránh bị địch khủng bố, các Ban cán sự đảng đông và tây đường 14 đã đưa ra phương án vận động nhân dân chuyển sang sống hợp pháp dưới chính quyền địch. Lúc đầu, dân các làng đều nhất mực không chịu, nhưng được cán bộ tích cực vận động, tuyên truyền, giải thích, người dân hiểu và tạm chấp nhận. Duy có xã Soáp nhất mực không chịu sống hợp pháp với địch".

Plei Soáp (ghi theo phiên âm), hay xã Xốp có trong con dấu hành chính bây giờ chính là nguyên mẫu làng Xô Man trong truyện ngắn Rừng Xà nu nổi tiếng của nhà văn Nguyễn Trung Thành. "Làng ở trong tầm đại bác của đồn giặc. Chúng nó bắn, đã thành lệ, mỗi ngày hai lần, buổi sáng sớm và xế chiều, hoặc đứng bóng và xẩm tối, hoặc nửa đêm và trở gà gáy. Hầu hết đạn đại bác đều rơi vào ngọn đồi xà nu cạnh con nước lớn. Cả rừng xà nu hàng vạn cây không có cây nào không bị thương. Có những cây bị chặt đứt ngang nửa thân mình, đổ ào ào như một trận bão. Ở chỗ vết thương, nhựa ứa ra, tràn trề, thơm ngào ngạt, long lanh nắng gay gắt, rồi dần dần bầm lại, đen và đặc quện thành từng cục máu lớn".

Anh Ðinh Sĩ Tạo, phóng viên thường trú Báo Nhân Dân tại Kon Tum đã chuẩn bị sẵn những đồ đi rừng và thức ăn cho mấy ngày đường. Song khi đến Xốp Nghét, dưới chân núi Ngọc Móc, đang hỏi đường mấy phụ nữ mà khoảng tuổi áng 20 cũng đúng, 50 cũng có lẽ, thì không ai biết bản cũ ở đâu nữa. Vừa lúc đó, A Nghêm chạy ra. A Nghêm nguyên là Phó Bí thư Ðảng ủy xã. Anh chỉ tay lên một ngọn rất cao trên dãy núi Ngọc Linh: "Ðâu trên đó, mà mình cũng không biết nó ở đâu. À, để mình tìm người già"... Người già ở đây là A Lĩa, 80 tuổi, còn cường tráng, mặt đỏ tía, vận bộ quân phục đã bạc mầu. A Lĩa nghe được tiếng Kinh nhưng không nói được nhiều, qua phiên dịch của A Nghêm, chúng tôi biết, do chạy giặc làng đã chuyển chỗ đến năm, bảy lần, nhiều lần phải ở trong hang đá. A Lĩa biết chỗ đó, nếu đi sớm cũng mất một ngày đường... Chúng tôi hỏi thăm về cụ Mết. Trong truyện Rừng Xà nu nhiều cái tên là hư cấu. Thí dụ cán bộ Quyết là người miền xuôi, ở rừng để lãnh đạo nhân dân và được đồng bào bảo vệ thì không biết là ai trong các tên Nhớ, Bác, Thương, Ðồng, Bào, Anh, Dũng, Tiến, Lên (là phương châm hành động cũng là bí danh của các đồng chí Phạm Trọng, Phan Vững, Huỳnh Chơn Nhơn, Phùng, Trần Ðình Chi, Lê Hồng Tân, Kết, Ðàn, Nguyễn Phú Chính, Phụng, Hoàng, Thiệt).

Nhân vật chính trong Rừng Xà nu chính là nhân dân, một nhân dân đông đảo, đứng thẳng, có sức sống mãnh liệt không ai diệt được như chính rừng xà nu. (Xà nu là cây thông ba lá, tiếng địa phương là Loong Xanu). Ðó là ông Mết, Tnú, là Mai, là Dít... Tnú bị bắt. Khi thằng giặc hỏi anh cộng sản ở đâu, anh chỉ vào cái bụng. Thằng ác ôn Dục điên tiết tẩm dầu xà nu đốt cháy mười ngón tay của anh. Truyện viết: "Còn tau thì lúc đó đứng đằng sau gốc cây vả. Tau thấy chúng nó trói mày bằng dây rừng. Tau không nhảy ra cứu mày. Tau cũng chỉ có hai bàn tay không. Tau không ra, tau quay đi vào rừng, đi tìm giáo mác. Nghe rõ chưa, các con rõ chưa. Nhớ lấy, ghi lấy. Sau này tau chết rồi, bay còn sống phải nói cho con cháu. Chúng nó đã cầm súng mình phải cầm giáo!... Một ngón tay Tnú bốc cháy. Hai ngón, ba ngón. Không có gì đượm bằng nhựa xà nu. Lửa bắt rất nhanh. Mười ngón tay đã thành mười ngọn đuốc. Tnú thét lên một tiếng. Chỉ một tiếng thôi. Nhưng tiếng thét của anh bỗng vang dội thành nhiều tiếng thét dữ dội hơn. Tiếng "giết"! Tiếng chân người đạp lên trên sàn nhà ưng ào ào. Tiếng bọn lính kêu thất thanh. Tiếng cụ Mết ồ ồ: "Chém! Chém hết!". Cụ Mết, đúng rồi, cụ Mết, đã đứng đấy, lưỡi mác dài trong tay. Thằng Dục nằm dưới lưỡi mác của cụ Mết. Và thanh niên, tất cả thanh niên trong làng, mỗi người một cây rựa sáng loáng, những cây rựa mài bằng đá Tnú mang từ đỉnh núi Ngọc Linh về"...

Ðất nước đã đứng lên như vậy. Ông Mết có thể là nhân vật hư cấu nhưng cả Xốp, cả Ðăk Glei đều tin rằng đó là A Mết, tức Tu Nguồn, Anh hùng LLVT nhân dân, người của làng Xốp Nghét. A Mết là người đầu tiên của tộc Tà Rẹt (nhánh của Giẻ Triêng) đi theo và vận động con cháu đi theo cách mạng. Xưa, thà ở hang, chịu đạn cày, bom xới, mất làng, mất người vẫn không một ngày sống chung, một ngày chịu theo chính quyền Mỹ - ngụy. Nay vẫn một lòng trung trinh cách mạng.

A Ruổi, Chủ tịch xã, hôm ấy có đám ma. A Nghêm và chúng tôi đi tìm các già làng. Trừ những người đi chăn bò, ai có mặt đều được A Nghêm gọi đến nhà cháu của A Bố ở Soáp Rùi (Xốp Dùi). A Bố từng nuôi giấu A Lức, A Prưng... các Tnú của làng làm cách mạng, bẫy chông, cầm súng đánh giặc, được thưởng Huân chương Kháng chiến. Lát sau A Nhóa đến. A Nhóa theo cách mạng năm 1959, trước A Bố một năm, sau vào bộ đội, đến năm 1975 mới giải ngũ. Cả hai đều được A Mết bảo: "Nó đã cầm súng, mình phải cầm giáo, phải vào bộ đội đánh giặc. Ðuổi được giặc, cả làng mình, cả nước mình mới được tự do, được sung sướng"... Bây giờ hòa bình, sướng lắm rồi, A Nhóa nói. Ðường ô-tô đã vào tận núi. Làng 64 hộ đã có 29 hộ có xe máy. Còn nhiều nhà nghèo, cái vật chất mới sướng tạm tạm... Nhưng mình cũng như người làng mình, trước cũng vậy, bây giờ cũng vậy, chỉ nghe theo Ðảng, theo Bác Hồ, không nghe kẻ xấu...

Chúng tôi theo A Nhóa, A Bố ra bãi núi nhìn về làng cũ. Gặp Y Víp và con gái của chị gùi thóc đi xay. Tôi xin chụp một pô ảnh làm kỷ niệm. Và nhấc thử cái gùi Y Víp. Nặng quá, mãi không cho lên vai được, tất cả cùng cười. A Nhóa, gần 80 tuổi, nhấc lên nhẹ tênh... Trước chỉ có rau núi, củ mì. Giờ thóc không thiếu...

A Nghêm đã bỏ cả một ngày trời đi theo chúng tôi, giữa cái nắng Tây Nguyên mùa hạn để đi tìm người già trên nương, người trẻ dưới suối. Và thật may mắn, chúng tôi đã gặp được mấy người con trai, con dâu của cụ Mết. Con trai út của cụ là A Phim, sinh năm 1975, một thanh niên rất ấn tượng. Các anh A Rươn, A Mép... đều học tương đối. Chỉ A Phim là học đến lớp 2. Cụ Mết bảo các con là muốn làm cách mạng, muốn phấn đấu theo Ðảng thì phải học. Phim nói: "Mình cũng học nhưng có lúc thầy giáo thấy khổ bỏ về, mình chẳng biết học ai. Ðến lúc nó lên thì mình lại quên mất cái chữ rồi nên thôi. Ông già lúc còn sống, chăm cuốc ruộng, dặn rằng, nhà đông anh em, sau này không theo được Nhà nước thì bám lấy đất mà sống. Chẳng may, trong cơn bão số 9 năm 2009, lở núi, ruộng bị lấp sạch"... A Phim là người rất thạo rừng, năm 1987 mới biết đến "cục phòng" (xà-phòng) nhưng rau củ rừng từ củ vài, củ joac, đến rau tưl, rau rlò, loong tứt đều thạo. Trong kháng chiến, nhờ nó mà sống; bây giờ cũng phải nhờ nó.

Cụ Mết mất năm 2000, lúc 91 tuổi. Những lời cụ dặn các con, dặn làng bây giờ mọi người vẫn nhớ. Xã Xốp, xã Ðăk Choong, cả vùng rộng lớn của hai căn cứ H30, H40 bây giờ vẫn in đậm dấu ấn những người con trung kiên của Ðảng từ Bình Ðịnh, Quảng Nam, Quảng Ngãi, Phú Yên lên gây dựng phong trào...

Ðêm đó, chúng tôi ngủ lại Plei Xốp. Tôi không sao ngủ được, dù đồng bào đã nhường cho cái giường tốt, có nệm và mùng mới. Vẫn còn tiếng muỗi rừng vo vo. Bốn mươi năm là một thời gian thật dài, đủ làm thay đổi cục diện thế giới. ở Plei Xốp cũng đã có nhiều đổi thay. Tnú ngày xưa không biết viết chữ, phải đập cả đầu mình cho chảy máu ra học. Bây giờ trường trung học phổ thông đã lên Ðăk Choong. Nhưng có một cái vẫn tươi nguyên như thuở ban đầu là tình người, tình yêu cách mạng của người Xê Ðăng, Giẻ Triêng, Ba Na và các dân tộc anh em ở đây, trên mảnh đất Ngã ba Ðông Dương.

Tôi đã mất hai ngày để tìm chụp một bức ảnh đẹp về rừng xà nu mà không được ưng ý. Ngày ấy, "Những cây con vừa lớn ngang tầm ngực người lại bị đại bác chặt đứt làm đôi. Ở những cây đó, nhựa còn trong, chất dầu còn loãng, vết thương không lành được, cứ loét mãi ra, năm mười hôm thì cây chết. Nhưng cũng có những cây vượt lên được cao hơn đầu người, cành lá sum suê như những con chim đã đủ lông mao lông vũ. Ðạn đại bác không giết nổi chúng, những vết thương của chúng chóng lành như những vết thương trên một thân thể cường tráng. Chúng vượt lên rất nhanh, thay thế những cây đã ngã... Cứ thế, hai ba năm nay rừng xà nu ưỡn tấm ngực lớn của mình ra, che chở cho làng. Ðứng trên đồi xà nu ấy trông ra xa, đến hút tầm mắt cũng không thấy gì khác ngoài những đồi xà nu nối tiếp tới chân trời"... Cây rừng, theo A Bố, A Nhóa nhớ lại, có cây bảy người ôm không hết. Thế mà bây giờ không tìm nổi một cụm xà nu...

Buổi sáng, khi xe gần chuyển bánh thì một cô gái chạy đuổi theo tôi, trên tay cầm quả bí đỏ. Ðó là Y Phấn. Y Phấn có cái quán nhỏ bán rau dưới trường trung học cơ sở. "Chú ơi, hôm qua chú hỏi mua quả bí. Cháu cho chú mang về xuôi". Tôi đang hết sức ngỡ ngàng thì Tạo nói: Ở đây đồng bào là vậy. Họ vẫn quen cho hơn là mua bán.

Dọc đường từ Ðác Glây về Ngọc Hồi, Kon Tum, những ngọn khói vẫn lan man trên các núi đồi đã bị cạo trọc. Nơi xưa là đại ngàn, giờ mầu xanh chỉ lơ thơ như túm tóc tam mao. Ðường Hồ Chí Minh bóng láng đã chảy xuyên các tỉnh Tây Nguyên. Xe chạy không gợn một tiếng động mà lòng tôi cứ thót lên, nhiều khi quặn lại như đang ngồi trên chiếc xe trâu rổn rảng qua những lòng sông, lòng suối phơi đầy đá cuội. Tôi mong có một ngày, một ngày không xa, được lướt trên con đường Hồ Chí Minh mướt mát mầu xanh để về cùng Y Thọ, Y Víp, Y Phấn, với A Nghêm, A Phim, A Mép... Mong sao A Lĩa vẫn còn, người đã nói với tôi: Uống đến khi cái tay không biết uống nữa. Ngày ấy bao giờ?

Có thể bạn quan tâm