Người thầy thuốc - tác giả vở kịch “Tiền tuyến gọi”

Ðã bước vào ngưỡng tuổi "thất thập" nhưng phong thái còn nhanh nhẹn, GS, TS Trần Quán Anh càng sôi nổi khi gợi lại những năm tháng chiến tranh: Quãng thời gian những năm 1965-1974 cùng với khí thế cả nước ra quân, Bộ Y tế đã cử nhiều đoàn cán bộ, y, bác sĩ ra chiến trường, vào mặt trận. Một số đoàn của GS Ðặng Văn Ngữ, Ðỗ Nguyên Phương, Phan Thị Phi Phi vào B2, B5, mặt trận Quảng Ðà, còn chúng tôi chủ yếu là phục vụ tuyến lửa khu 4.

Quả thực trong bối cảnh ấy, không ai có thể ngồi yên ở trường đại học, phòng nghiên cứu. Những năm 1965 - 1967, năm nào chúng tôi cũng vào Hà Tĩnh, Quảng Bình từ năm, bảy tháng để hỗ trợ y tế địa phương, cấp cứu và chữa bệnh cho quân dân do bị máy bay Mỹ bắn phá. Vào khu 4 bấy giờ, làm gì có ô-tô, chỉ đi xe đạp, hoặc đi bộ.

Biết bao địa danh ác liệt một thời chúng tôi đã đi qua và bám trụ như Phà Ghép (Thanh Hóa), Cầu Cấm, Bến Thủy (Nghệ An), phà Linh Cảm (Hà Tĩnh), sông Nhật Lệ, cầu Long Ðại (Quảng Bình). Và những chuyến đi ấy, dù lắm gian khổ, không ít thiếu thốn, khó khăn thậm chí có lúc cái chết chỉ là gang tấc nhưng là dịp để lớp bác sĩ chúng tôi lúc đó rèn luyện, thử thách và cống hiến; cũng trong thực tế ấy đã nảy sinh nhiều đề tài khoa học phục vụ công tác cứu chữa thương, bệnh binh, điều tra các di chứng vết thương do chiến tranh.

Song kỷ niệm khó quên trong những năm đi phục vụ chiến trường có lẽ là thời gian các năm 1970 và 1972, chúng tôi ở Vĩnh Linh. Nằm ở phía bắc cầu Hiền Lương, Vĩnh Linh là nơi chi viện sức người, sức của cho quân dân ta bên kia bờ sông Bến Hải; đây cũng là địa điểm đón nhận thương, bệnh binh từ phía trong chuyển ra.

Suốt mấy năm liền, Vĩnh Linh oằn mình giữa mưa bom, bão đạn của kẻ thù, chúng tôi khi ở Vĩnh Long, lúc qua Vịnh Mốc, Vĩnh Tú lán trạm phẫu thuật luôn phải hoạt động dưới hầm hào, địa đạo. Có thời điểm tiếp nhận hơn một nghìn thương binh, nhân lực lại ít nên chúng tôi phải làm việc cả ngày lẫn đêm hằng tuần lễ. Mổ xẻ dưới địa đạo thiếu thốn đủ đường, để có ánh sáng phục vụ ca mổ chỉ có cách dùng đèn pin hoặc ánh sáng từ đi-na-mô xe đạp phát ra.

Không ít ca mổ phải xử lý phức tạp, hay có trường hợp phải gắp 30 - 40 viên bi của bom bi xuyên vào bụng, bởi vậy khi kết thúc ca mổ cũng là lúc người đạp xe đạp "cung cấp" ánh sáng rã rời chân tay. Thuốc men, máu, dịch truyền dùng để cấp cứu thương, bệnh binh thiếu đã đành, cái ăn uống cho con người cũng khan hiếm; có thời kỳ suốt mấy tháng trời tiêu chuẩn mỗi người một bơ bò gạo/ngày, và bảy miếng tóp mỡ chưng với muối để ăn cơm. Vậy mà chúng tôi vẫn lạc quan, hăng say làm việc hàng chục giờ trong ngày chỉ với tâm niệm làm sao cứu chữa được nhiều người bệnh, giảm bớt nỗi thương đau...

- Có phải trong hoàn cảnh đó đã thôi thúc bác viết vở kịch “Tiền tuyến gọi”?

- Ðúng vậy, những năm tháng kháng chiến chống Mỹ, cứu nước, văn học của ta dưới nhiều hình thức, thể loại đã tập trung phản ánh, ca ngợi thực tế chiến đấu ngoan cường, hy sinh anh dũng của quân và dân hai miền nam, bắc. Tôi chỉ là một anh viết nghiệp dư, nhưng hình ảnh các tập thể, cá nhân ngành y tế cùng bám theo các đoàn quân, đơn vị thanh niên xung phong ra chiến trường, vào mặt trận đã khơi gợi cho tôi phải viết cái gì đó để thể hiện sự đóng góp, hy sinh của đội ngũ thầy thuốc trong cuộc kháng chiến hào hùng của dân tộc.

Vở kịch “Tiền tuyến gọi” được viết xong năm 1968. Sau khi nhà xuất bản Văn học in và phát hành, Ðoàn kịch nói Hà Nội là đơn vị đầu tiên dàn dựng, biểu diễn. Vở kịch gồm ba màn, các nhân vật chính là những con người sống chung quanh tôi, hoặc tôi đã được gặp ở trường đại học, trong bệnh viện. Giữa lúc cuộc kháng chiến giành độc lập dân tộc diễn ra quyết liệt, không ít bác sĩ, sinh viên ngành y sẵn sàng lên đường đi phục vụ tuyến lửa thì cũng có trường hợp so đo, tính toán; thậm chí có người muốn dùng khoa học và "ô" che để bước lên bậc thang danh vọng. Trong bối cảnh đó, vở kịch đặt ra vấn đề: học tập, nghiên cứu các thành tựu y học là nhằm phục vụ ai? Tác phẩm ra đời chưa được bao lâu, với sự công diễn của Ðoàn kịch nói Hà Nội tại các rạp của thủ đô, rồi các đoàn nghệ thuật Hà Tây, Quảng Nam - Ðà Nẵng bấy giờ dàn dựng, có nơi phục vụ biểu diễn người xem 30 - 40 đêm liền. Và năm 1970, Xưởng phim truyện Việt Nam dựng thành phim Tiền tuyến gọi, trong đó có các diễn viên nổi tiếng: Thế Anh, Trần Phương, Thanh Tú tham gia đã thu hút được sự chú ý của công chúng khán giả.  Vâng, lứa tuổi những người ngồi trên ghế nhà trường cấp ba (cuối những năm 60 đầu 70 thế kỷ trước) như chúng tôi ít nhiều đều được tiếp xúc với Tiền tuyến gọi qua phim ảnh hay kịch nói, và nó có sức lay động, thúc giục không ít thanh niên ra trận.

Tác động ảnh hưởng của tác phẩm văn học là thế nhưng như GS, TS Trần Quán Anh cho biết, tiền nhuận bút cho vở kịch lúc đó chỉ được 800 đồng, cũng thấy vui lắm rồi. Năm 2000, “Tiền tuyến gọi” được đưa vào tuyển tập kịch Việt Nam chọn lọc. Gần 40 năm sau vở kịch “Tiền tuyến gọi” ra đời, tác giả của nó - GS, TS Trần Quán Anh vẫn thầm lặng, miệt mài với công tác đào tạo hệ sau đại học và chữa bệnh cứu người tại Bệnh viện Việt Ðức.

Ðến nay, ông đã hoàn thành 30 đề tài khoa học, trong năm đề tài cấp bộ, ba trong số đó được xếp loại xuất sắc. Ðồng thời, GS, TS Trần Quán Anh cũng đã xuất bản bảy đầu sách phục vụ công tác nghiên cứu giảng dạy và hoạt động lâm sàng chuyên ngành tiết  niệu - thận học.

Có thể bạn quan tâm