Người chiến sĩ hơn nửa thế kỷ cầm bút viết văn

Không chỉ qua những bức thư anh thường gửi chúng tôi vào dịp năm mới, vào ngày thành lập Quân đội, ngày thành lập Tạp chí, hay những chiếc phong bì nho nhỏ có chút tiền anh gửi biếu bạn văn cao tuổi lúc ốm đau,... mà còn qua các câu chuyện do anh, chị nhà văn lớp trước kể lại.

Thật tình thì hàng chục năm trước, lần nào đến Văn nghệ Quân đội là lần ấy tôi e dè. Chỉ nhắc tới các tên tuổi từ Nguyễn Minh Châu, Nguyễn Khải, Xuân Thiều... tới Chu Lai, Khuất Quang Thụy, Nguyễn Ðức Mậu, Vương Trọng.., là tôi đã "phát hoảng", đâu nghĩ đến một ngày nào đó sẽ là đồng nghiệp của các anh. Và lần đầu tiên tôi được tiếp xúc với Nguyễn Khải là một lần anh ra Hà Nội du xuân. Thấy anh nhà văn dáng cao dong dỏng, gương mặt còn mang nét thư sinh,dắt chiếc xe đạp Thống Nhất nam bôi dầu bóng loáng y hệt những chiếc xe của "thời bao cấp" đi vào cổng cơ quan là tôi đã tò mò. Sau lân la tìm hiểu, tôi mới biết anh vẫn gửi chiếc xe đó bên trụ sở Hội Nhà văn, để thi thoảng ra Hà Nội có phương tiện thư thả đạp đi đây đi đó thăm anh em, bạn bè.

Ðấy là chuyện cuối những năm 90 của thế kỷ trước, còn nếu trên trang sách thì tôi đã gặp Nguyễn Khải cách đó rất lâu. Từ ngày tôi đi sơ tán và học môn giảng văn ở trường làng, trong đó có Mùa lạc, Hãy đi xa hơn nữa... của anh. Tôi vẫn nghĩ dường như từ thời viết tiểu thuyết Xung đột và tạo dựng nên nữ nhân vật Ðào trong Mùa lạc, Nguyễn Khải đã có xu hướng quan tâm và trình bày một cách văn chương các vấn đề liên quan tới số phận con người trong các mối quan hệ giữa người với người, giữa các biến động chính trị - xã hội lớn lao của đất nước. Và phải nói rằng các tiểu thuyết Gặp gỡ cuối năm, Thời gian của người và kịch bản Cách mạng là ba tác phẩm tiêu biểu cho xu hướng này. Anh thường lựa chọn các tình huống đặc biệt - mà đặc biệt nhất ở nước Việt Nam trong thế kỷ 20 là cuộc cách mạng do Ðảng ta lãnh đạo, rồi ngẫm ngợi, lý giải và chọn các góc nhìn khác nhau về sự kiện để vừa làm nổi bật được tính chất của sự kiện vừa khắc hoạ được các số phận trong tình huống xã hội - lịch sử riêng của nhân vật. Ðó là bút pháp đòi hỏi nhà văn phải có khả năng tư duy sâu sắc và một tay nghề có bản lĩnh. Chính vì thế, với hai cuốn tiểu thuyết kể trên của Nguyễn Khải, người đọc khó có thể đọc liền một mạch nếu muốn tiếp nhận một cốt truyện, và cũng khó kể lại các tiểu thuyết này theo cốt truyện. Mà chỉ có thể đọc tác phẩm một cách nhẩn nha và suy ngẫm cùng tác giả.

Nếu tính từ truyện ngắn đầu tay có nhan đề Ra ngoài xuất bản năm 1951 - năm anh 21 tuổi và đã có 5 năm quân ngũ, đến bản thảo Trôi theo tự nhiên mới hoàn thành năm 2007 thì Nguyễn Khải đã có hơn nửa thế kỷ viết văn. Ngay từ những ngày đầu mới cầm bút, Nguyễn Khải đã được trao Giải thưởng Văn học Lê Thanh Nghị (1951) và Giải thưởng Văn nghệ Việt Nam (1951-1952), nhưng tên tuổi của anh được bạn đọc chú ý từ ngày anh xuất bản tiểu thuyết Xung đột gồm hai tập trong hai năm 1959 và 1960.

Với Xung đột, Nguyễn Khải đã tỏ ra rất nhạy bén trong việc phát hiện các vấn đề xã hội - con người trong một thời kỳ mà những biến động phức tạp có khả năng đưa tới những diễn biến tư tưởng và tâm lý hết sức đa dạng. Trong đó cái tốt tồn tại đan xen với xấu và chỉ có sự quan sát tỉnh táo, tinh tế cùng sự sắc sảo của các nhà văn như Nguyễn Khải mới có khả năng phát hiện và phân tích. Cùng với tiểu thuyết này, đầu những năm 60 của thế kỷ 20, Nguyễn Khải còn cho thấy anh là một cây bút truyện ngắn nổi bật qua các tập Mùa lạc (1960), Hãy đi xa hơn nữa (1963), Người trở về (1964). Sự mẫn cảm trước những vấn đề phức tạp của thời cuộc và nhân sinh giúp anh khám phá các "bí ẩn" của sự vận động bên trong thế giới tinh thần của con người khi xã hội có những chuyển dịch tích cực mà chỉ có gạt bỏ cái cũ đã lỗi thời, biết dấn mình vào cuộc sống mới sinh động và mang tinh thần nhân văn thì mỗi cá nhân mới có thể tìm được chỗ đứng giữa cộng đồng.

Niềm tin vào cuộc sống - đó là thông điệp Nguyễn Khải gửi đến người đọc qua số phận của từng nhân vật trong các tập truyện nói trên. Niềm tin ấy sẽ giúp người ta vượt qua tất cả, biết chọn chỗ "sáng" và biết chối từ chỗ "tối", cho dù có lúc tưởng chừng như không còn niềm tin vào cuộc sống như nhân vật Ðào của Mùa lạc. Cũng vì thế, cùng với Xung đột, một số truyện ngắn của Nguyễn Khải viết vào thời kỳ xây dựng chủ nghĩa xã hội ở miền bắc đã thật sự ghi dấu ấn vào nhiều bạn đọc cùng thời.

Bắt đầu sự nghiệp cầm bút với tư cách là người chiến sĩ, nên dù dành nhiều quan tâm tới các vấn đề xã hội nói chung thì Nguyễn Khải vẫn luôn đứng bên đồng đội của anh, cùng họ đi qua suốt hai cuộc kháng chiến, và anh viết về họ với sự đồng cảm, chia sẻ mà các tác phẩm ký, ký sự như Họ sống và chiến đấu (1966), Tháng ba ở Tây Nguyên (1976) đã nói lên điều đó... Viết nhanh, viết kịp thời, song lại không làm ảnh hưởng tới "chất" riêng trong ngòi bút, Nguyễn Khải sử dụng thể loại ký để kết hợp giữa khả năng quan sát, khả năng lựa chọn chi tiết tiêu biểu trong cuộc sống chiến đấu của những người lính mà anh từng tiếp xúc, với khả năng suy tư có chiều sâu triết lý để tìm hiểu bản chất bên trong của sự kiện - con người. Trong những tác phẩm khác anh viết về đề tài chiến tranh cách mạng và lực lượng vũ trang cũng vậy. Ðọc Ðường trong mây, Ra đảo (1970), Chiến sĩ (1973) sẽ thấy chiến tranh được phác hoạ như là "phông nền" để tác giả tìm hiểu, phân tích làm nổi bật đề tài của tác phẩm. Sau những năm chiến tranh, phong cách văn chương riêng của Nguyễn Khải đã định hình và được bổ sung một số phẩm chất mới. Nhưng người đọc vẫn nhận ra một Nguyễn Khải thông minh, sắc sảo, luôn quan tâm tới sự vận động của cuộc sống, tới các vấn đề chính trị - xã hội của đất nước, của dân tộc, để từ đó tìm hiểu và lý giải theo một phong cách rất riêng để xem xét điều đó có ảnh hưởng tới số phận của con người như thế nào. Và phải nói rằng, tầm vóc của vấn đề được đề cập trong các tác phẩm anh viết sau chiến tranh đã lớn hơn, với các dẫn dụ và biện giải có quy mô rộng hơn... Tất cả các đặc điểm riêng ấy đã làm cho Nguyễn Khải trở thành một nhà văn luôn làm chủ ngòi bút, phát huy được tính chủ động của hoạt động sáng tạo với tư cách là chủ thể tích cực, độc lập và độc đáo. Tác phẩm của anh, dù bám sát các vấn đề thời sự xã hội song không vì thế mà giảm thiểu ý nghĩa cũng như thành công về tư tưởng - nghệ thuật, nên được nhiều người đọc hồ hởi đón nhận. Là một trong số các nhà văn xuất sắc ở Việt Nam đã gắn bó cuộc đời với cách mạng, Nguyễn Khải có một con đường đi riêng của anh trong văn chương, và đọc anh sẽ càng hiểu thêm rằng, khi nhà văn dấn mình vào cuộc sống, sống với con người trong mọi tình huống phức tạp của họ để tìm hiểu, phát hiện, khái quát rồi "hóa giải" một cách sâu sắc về tác động qua lại giữa cái chung của xã hội và cái riêng của con người... thì nhà văn đã có thể xác lập các tiền đề đi tới thành công.

Hơn nửa thế kỷ cầm bút, Nguyễn Khải viết nhiều và viết khỏe. Lại nhớ ngày nào anh tâm sự: "Vào tuổi 70 tôi đã quyết định: không viết nữa, nghỉ ngơi vài năm cho đầu óc thanh thản rồi chết là vừa đẹp. Nghỉ để chơi với các cháu, học nghệ thuật làm ông cũng là chuyện hay, chứ sao!". Thế nhưng, từ những điều anh rút ra từ đời viết văn của mình rằng: "Khoe tài, tự đắc với cái tài của mình là việc làm của kẻ mất trí, chẳng có lợi cho ai, trước hết rất bất lợi cho bản thân. Dương danh cho thỏa lòng kiêu một lúc để chịu mất đi nhiều năm tháng phải sống trong ân hận, trong thất vọng, trong những giành giật vặt vãnh để sinh tồn, đó là một chuyện rất đáng tiếc của những người nghĩ hẹp. Một đời tôi đã được chứng kiến nhiều tài năng lúc mới xuất hiện hết sức rực rỡ, độc đáo mà rồi về già phải ôm mối hận đã để trượt qua nhiều cơ hội được vắt kiệt cái tài của mình. Ðừng đổ lỗi cho thời thế, cho số phận. Là do mình cả. Mình còn chưa biết cách ẩn nhẫn, nín nhịn, biết chọn cái lúc cần nói, cần viết, biết dừng lại cái lúc cần dừng, dám dẹp bỏ lòng tự ái tầm thường, bỏ qua những hiểu nhầm thiển cận của bạn bè và người thân để bảo vệ đến cùng hòn ngọc ngậm không bị phá hủy. Nó là công lực tu luyện một đời của mình để trao lại cho những thế hệ đến sau", đã đặt anh trước câu hỏi: "Có nên viết những chuyện đó ra để bạn đọc cùng thưởng lãm không nhỉ?". Và anh lại viết. Vậy là Nguyễn Khải đã viết đến ngày cuối cùng của cuộc đời anh. Âu cũng là nỗi ám ảnh của trang giấy mà một nhà văn như Nguyễn Khải không thể dứt ra nổi, đó cũng là phẩm cách của một nhà văn khi tự thấy bản thân còn có ích cho đời. Và đó cũng là sự kính trọng mà tôi muốn gửi tới anh vào ngày anh đã đi xa, như ngày nào tôi tự nhắc mình phải biết kính trọng và học hỏi ứng xử đầy tình người của anh khi công khai xin lỗi một người bạn văn về một sự kiện xảy ra đã rất lâu. Anh xin lỗi bạn mình, vâng, ở tuổi 70 Nhà văn Nguyễn Khải vẫn làm một điều như thế!