Nhạc sĩ Nguyễn Đức Toàn:

"Nghệ thuật và cách mạng là ý nghĩa cuộc đời tôi"

"Nghệ thuật và cách mạng là ý nghĩa cuộc đời tôi"

Nhạc sĩ Nguyễn Đức Toàn đã ở tuổi gần 80, nhưng ông vẫn vẽ và viết rất sung sức. Ông nói say sưa về âm nhạc, và việc đầu tiên là "thết đãi" khách đến chơi nhà một món ăn tinh thần hấp dẫn bằng bài hát mới nhất của ông có nhan đề "Cầu mưa" mang âm hưởng dân ca miền núi phía Bắc. Ca khúc này đã được ông gửi tham gia chương trình "Bài hát Việt" của Đài truyền hình Việt Nam.

Nói về các chương trình âm nhạc đang thi nhau đua nở trên các phương tiện thông tin đại chúng, nhạc sĩ Nguyễn Đức Toàn không giấu giếm một tâm trạng lo lắng.

Ông cho rằng chúng ta đang quá lạm dụng từ nhạc sĩ, hễ ai viết ra được một vài ca khúc là hoàn toàn có thể gắn cho họ một cái mác nhạc sĩ, dù cho cái sự học hành, hiểu biết về âm nhạc của họ không đáng là bao và chưa có gì đảm bảo cho sức sống lâu bền trong tác phẩm của họ.

Với ông, nhạc sĩ đúng nghĩa là rất ít. Một người viết ca khúc đơn thuần chỉ được xem như là "người làm ca khúc" thôi. Để trở thành một nhạc sĩ, người làm âm nhạc phải đi một con đường rất dài, phải có một kiến thức âm nhạc đủ lớn và phải có được những tác phẩm giá trị (mà ca khúc chỉ là một phần rất nhỏ).

Nhạc sĩ Nguyễn Đức Toàn thuộc thế hệ những nghệ sĩ trưởng thành trong Cách mạng Tháng Tám. Ông bước vào đời là bước vào cuộc cách mạng lớn của dân tộc, và làm nghệ thuật cũng chính là để phục vụ cuộc cách mạng giải phóng con người.

Đến với nghệ thuật, Nguyễn Đức Toàn theo học Trường Mỹ thuật Đông Dương. Nhưng rồi Cách mạng Tháng Tám bùng nổ, ông gia nhập các đoàn biểu tình đi cướp trại bảo an binh, đi míttinh ở Quảng trường Nhà hát Lớn, và cùng với nhạc sĩ Đỗ Nhuận lập ra dàn nhạc nhỏ, tiền thân của Đoàn kịch Sao vàng (tổ chức ca nhạc đầu tiên của Cách mạng Tháng Tám).

Trong khí thế sục sôi của đất nước, dường như sự trầm tĩnh của một người làm hội họa không đủ hấp dẫn người thanh niên tuổi đôi mươi, Nguyễn Đức Toàn chuyển sang sáng tác nhạc. Bài hát đầu tiên: "Ca ngợi đời sống mới" được phổ cập ngay sau ngày cách mạng bùng nổ nhanh chóng được nhiều người yêu thích.

Đoàn kịch Sao vàng gồm các thành viên: nhạc sĩ Đỗ Nhuận, tài tử Ngọc Bảo, và các nhạc sĩ Quốc Anh, Cầm Phong và Nguyễn Đức Toàn đã có mặt ở khắp các vùng quê kháng chiến để phục vụ đồng bào, chiến sĩ.

Sân khấu được dựng lên bởi mấy tấm phản lim, treo vài cái chăn dạ làm phông màn, ánh sáng thì dùng vài đĩa đèn dầu lạc chỉ cần đủ soi rõ mặt người.

Có đêm đang diễn trời đổ mưa, đoàn đành phải chờ ngớt mưa rồi diễn tiếp. Đèn tắt, cá đoàn diễn dưới ánh trăng, còn khán giả, thay cho tiếng vỗ tay (sợ tạo ra tiếng ồn địch nghe thấy) đồng loạt giơ mũ lên trời cổ vũ cho các diễn viên.

Ôn lại những kỷ niệm những ngày tuổi trẻ sôi nổi ấy, nhạc sĩ Nguyễn Đức Toàn vô cùng xúc động. Ông nói, chính là lòng nhiệt tình của một thanh niên đã đưa ông đến với cách mạng. Và chính nhờ cách mạng, ông trở thành một nghệ sĩ.

Sau chiến thắng Điện Biên Phủ, hòa bình lập lại ở miền bắc, nhạc sĩ Nguyễn Đức Toàn được phân công phụ trách Đoàn Văn công Tổng cục Chính trị. Ông đã được đi biểu diễn ở Trung Quốc, Mông Cổ, Triều Tiên, tham dự Đại hội liên hoan Thanh niên thế giới lần thứ 7 và sau đó được cử đi học sáng tác âm nhạc tại nhạc viện Kiep (Liên Xô cũ).

Những năm tháng theo học âm nhạc ở một đất nước có nền âm nhạc phát triển bậc nhất thế giới đã trang bị cho nhạc sĩ Nguyễn Đức Toàn một vốn liếng kiến thức toàn diện. Ông miệt mài học hỏi và bản năng nghệ sĩ đã giúp ông sáng tạo ra nhiều tác phẩm khí nhạc được nhiều người biết đến, như hợp xướng 4 chương: "Giải phóng" viết năm 1970, tổ khúc giao hưởng 3 chương: "Tổ quốc" viết năm 1971.

Rất nhiều ca khúc của nhạc sĩ Nguyễn Đức Toàn đã trở nên nổi tiếng và tạo dựng tên tuổi nhiều thế hệ ca sĩ, như "Biết ơn chị Võ Thị Sáu", "Tình em biển cả", "Đảng là cuộc sống của tôi", "Hà Nội trái tim hồng", "Chiều trên bến cảng"...

Ca khúc "Chiều trên bến cảng" của ông đã mở ra một phong cách nhạc nhẹ trong âm nhạc Việt Nam cuối những năm 1970.

Nhớ lại hoàn cảnh ra đời của ca khúc này, nhạc sĩ tâm sự: "Tôi vốn là một người lính, và đã đi biển rất nhiều lần. Tình yêu và nỗi nhớ của tôi dành cho biển là tình yêu, nỗi nhớ của một người lính. Trước biển, tôi chưa bao giờ dửng dưng như một du khách, mà luôn lắng nghe từng con sóng vỗ, thấy như hơi thở của chính mình.

Còn nhớ trong một chuyến đi đặc biệt, tôi và nhà thơ Huy Cận được Bộ Tư lệnh Hải quân mời tham quan một cuộc diễn tập của bộ đội ngoài khơi. Cuộc diễn tập này có phóng ngư lôi và bắn đạn thật. Chúng tôi xuống tàu lúc trời đã xế bóng, ra khơi lại đúng vào lúc trăng lên. Biển lặng như tờ, nhà thơ Huy Cận kéo tôi ra mạn tàu, bảo rằng ông chưa bao giờ nhìn thấy mặt biển xanh một cách kỳ lạ như vậy. Cái màu xanh của biển đêm ấy, tôi nghĩ, dù cho một họa sĩ có tài đến đâu cũng không thể pha nổi màu.

Sau này, khi viết về biển, tôi hay nhớ tới màu xanh thăm thẳm ấy, mà khấn sao cho "hồn biển" nhập vào tôi.

Bài hát "Chiều trên bến cảng" ra đời trong một chiều hè năm 1978. Tôi quan sát những con tàu đang cập bến, nghe những hồi còi quen thuộc. Tất cả đều gợi cho tôi cảm giác về những cuộc gặp gỡ và chia ly, những lần ra đi và những lời hẹn ước trở về. Tôi đã viết lời ca khúc trên một vỏ bao thuốc lá...".

Và "Chiều trên bến cảng" đã trở thành một tác phẩm được đông đảo người nghe yêu thích. Ca sĩ Ngọc Tân đã vinh danh giải đặc biệt tại Festival những bài hát về biển tại nước Đức năm 1979. Một điều đặc biệt là, trong cuộc đời nghệ thuật của mình, nhạc sĩ Nguyễn Đức Toàn đã viết rất nhiều tác phẩm ca ngợi các anh hùng liệt sĩ, như "Biết ơn chị Võ Thị Sáu", "Noi gương anh Lý Tự Trọng", "Bài ca Ngô Mây", "Ca ngợi Trần Thị Lý", "Ca ngợi Nguyễn Văn Trỗi"...

Có lẽ đã từng là một người chiến sĩ xông pha nơi chiến trường, nhạc sĩ thấu hiểu hơn ai hết phẩm chất anh hùng bất khuất trong mỗi người Việt Nam đã nằm xuống vì cuộc chiến đấu giành lại tự do cho Tổ quốc.

Về điều này, nhạc sĩ Nguyễn Đức Toàn nói rất giản dị rằng: "Tôi viết những bài hát ca ngợi những người anh hùng đã ngã xuống là bởi vì tôi yêu vẻ đẹp trọn vẹn của họ - những con người đã cống hiến cả tuổi trẻ của mình, vô tư và trong sáng, cho một ngày mai mà họ không hề được nhìn thấy. Họ đã sống và đã chết vì những người ở lại. Và tôi muốn rằng bằng các tác phẩm của mình, hình ảnh của những người anh hùng sẽ còn sống mãi với mai sau".

Nhạc sĩ Nguyễn Đức Toàn cười vui, kể cho tôi nghe về hoàn cảnh ông viết bài hát "Biết ơn chị Võ Thị Sáu". Ông nói, ông có một niềm tin rằng chị Sáu linh thiêng đã cứu ông qua rất nhiều hiểm nguy, nhiều lần bom rơi đúng chỗ mình nằm nhưng không nổ, và cả lần thoát hiểm qua cơn nhồi máu cơ tim năm 1991 nữa.

Tôi muốn hỏi nhạc sĩ Nguyễn Đức Toàn một câu rằng, thời của ông, những người nghệ sĩ-chiến sĩ đã đến với cách mạng và nghệ thuật rất hồn nhiên, vô tư, cho dù cái sự học không phải lúc nào cũng được bài bản như các nhạc sĩ trẻ bây giờ. Nhưng đó lại là thời kỳ sản sinh ra nhiều tên tuổi lớn được kính trọng cả về tác phẩm lẫn nhân cách. Ngày nay các nhạc sĩ trẻ được học rộng hiểu nhiều hơn, tiếp cận với khoa học kỹ thuật tốt hơn nhưng lại rất khó để tạo dựng tên tuổi trong lòng công chúng. Họ làm nghề bằng sự thông minh và chuyên nghiệp, nhưng dường như lại thiếu đi sự hồn nhiên, vô tư, vốn là những phẩm chất rất cần thiết của người nghệ sĩ?

Nhạc sĩ Nguyễn Đức Toàn bày tỏ, ông không cho rằng các nhạc sĩ trẻ hôm nay có kỹ thuật viết tốt hơn thế hệ cha anh mình, dù cho họ được tiếp cận với nhiều phương tiện kỹ thuật hiện đại hơn. Các nhạc sĩ thế hệ của ông, để trở thành những tên tuổi lớn, đều phải trải qua các trường đào tạo âm nhạc lớn trên thế giới. Các nhạc sĩ trẻ hôm nay đều ít học về lý luận âm nhạc. Họ đi du học ở nhiều nước, nhưng họ thường học các khóa ngắn hạn, thiếu bài bản, và thường chỉ học về nhạc nhẹ. Đây tất nhiên là một đòi hỏi tất yếu của cuộc sống thị trường, nhưng hãy cẩn thận, sự hào nhoáng, sự nổi tiếng nhanh chóng sẽ làm tiêu hao các tài năng.

Nhạc sĩ Nguyễn Đức Toàn nhấn mạnh: "Chúng ta hãy khắt khe hơn nữa với các nhạc sĩ trẻ, đừng vội dành cho họ quá nhiều mỹ từ. Phải cẩn thận với những lời khen như tuyệt vời, hảo hạng. Hãy chống lại căn bệnh ngoa ngôn mà giới làm nhạc đang gặp phải. Nhưng không phải chống lại bằng sự im lặng, mà là bằng trí tuệ. Phải dùng trí tuệ để khen một bông hoa đẹp, cảm xúc thôi thì chưa đủ".

Có thể nhạc sĩ, họa sĩ Nguyễn Đức Toàn quá khắt khe như ông vừa nói chăng? Nhưng tôi tin rằng chính là sự khắt khe trong lao động nghệ thuật đã làm nên một cuộc đời nghệ sĩ, một tên tuổi nghệ sĩ có nhiều tác phẩm lớn, được vinh dự nhận giải thưởng Hồ Chí Minh về Văn học nghệ thuật, như ông.

Có thể bạn quan tâm