Ngành dâu, tằm, tơ tìm hướng phát triển hiệu quả, bền vững

Ngành dâu, tằm, tơ tìm hướng phát triển hiệu quả, bền vững

Những mặt được và chưa được

Cả nước hiện có 25 nghìn ha dâu để nuôi tằm, lấy kén, sản xuất tơ. Hằng năm chế biến khoảng 1.800 tấn tơ các loại, dệt 1,5 triệu mét lụa, kim ngạch xuất khẩu đạt gần 30 triệu USD. Sản phẩm tơ, lụa Việt Nam được xuất sang nhiều nước như Nhật Bản, Mỹ, Hàn Quốc, Thái-lan, Ấn Ðộ, Bangladesh... Một số sản phẩm dệt của ngành đoạt giải "Sao vàng Ðất Việt" và "Cúp vàng APEC năm 2003". Nhờ trồng dâu, nuôi tằm, ươm tơ, dệt lụa, hàng chục nghìn nông dân ở nhiều vùng có việc làm ổn định, đời sống được cải thiện.

Tuy nhiên, hiệu quả của ngành dâu, tằm, tơ, lụa còn ở mức thấp, chưa tương xứng tiềm năng. Ðây là thách thức lớn trước xu thế cạnh tranh và hội nhập quốc tế.

Ðiểm yếu nhất trong quá trình sản xuất là năng suất, chất lượng cả khâu trồng dâu, nuôi tằm còn rất thấp. Mặc dù nhiều năm qua chúng ta đã nhập cả giống dâu, giống tằm, nhưng chỉ nhập giống mà không có chuyển giao công nghệ, dẫn đến năng suất dâu, kén, tơ thấp, giá thành cao, không có khả năng cạnh tranh với các cây trồng khác. Vì thế, diện tích dâu không ổn định.

Toàn ngành hiện có sáu đơn vị sản xuất trứng tằm giống, công suất 600 nghìn hộp/năm, chỉ đáp ứng 30% nhu cầu sản xuất. Số còn lại phải nhập từ nước ngoài, không được kiểm soát chặt chẽ, không ít lô trứng tằm giống chất lượng kém đưa vào sản xuất. Năm 2003, ở nhiều nơi, có tới 20-30% lứa tằm bị hỏng, chất lượng kén ươm giảm, thu nhập của người trồng dâu, nuôi tằm và chế biến tơ đều thấp.

Về thiết bị, công nghệ chế biến tơ, hiện nay cả nước có 11 đơn vị ươm tơ thuộc Tổng công ty Dâu tằm tơ (TCTDTT), tám cơ sở thuộc các địa phương và hàng trăm cơ sở ươm tơ tư nhân có tổng công suất 1.800 tấn tơ/năm, cùng với hàng nghìn hộ tư nhân ở các làng nghề ươm tơ thủ công, bán cơ khí. Công nghệ ươm tơ của TCTDTT không lạc hậu vì có đủ các thiết bị tự động của Nhật Bản, bán tự động theo kiểu Hàn Quốc do xí nghiệp cơ khí của TCTDTT sản xuất. Nhưng với 25 nghìn ha dâu, năng suất bình quân 750 kg kén/ha, chỉ đủ cung cấp 30% nguyên liệu cho chế biến tơ, trong đó có 10% cho ươm tơ tự động.

Những năm gần đây công nghệ sau tơ được đầu tư phát triển ngày càng tăng, hiện nay đạt khoảng 1.000 tấn tơ/năm, trong đó xe tơ cấp cao theo công nghệ Nhật Bản đạt 500 tấn.  Nhưng nhìn chung trình độ công nghệ dệt ở mức trung bình và thấp.

Nguyên nhân chính là trình độ thâm canh dâu, nuôi tằm còn rất thấp. Việc đổi mới giống dâu, giống tằm và chuyển giao công nghệ còn hạn chế. Quản lý nhà nước về sản xuất, cung ứng giống tằm không chặt chẽ, thiếu mô hình thâm canh dâu tằm đạt hiệu quả cao. Phát triển dâu tằm còn mang tính tự phát, phong trào, thiếu đồng bộ... Vì thế nguyên liệu thiếu, chất lượng kén tơ thấp, giá thành cao, sức cạnh tranh kém, các đơn vị chế biến tơ lâm vào cảnh khó khăn, thua lỗ. Ðây là thực trạng diễn ra trong nhiều thập kỷ làm cho ngành phát triển không ổn định, kém hiệu quả và thiếu bền vững.

Giải pháp nào để phát triển bền vững?

Từ việc đánh giá đúng thực trạng, thấy rõ những khó khăn, thách thức cũng như tiềm năng và cơ hội, TCTDTT xây dựng định hướng, chương trình hành động và tìm giải pháp phát triển trong những năm tới. Trước mắt, cần tập trung củng cố từ cây dâu, con tằm. Coi đây vừa là giải pháp lâu dài, vừa có tính đột phá. Trong năm 2004, các nhà máy, cơ sở chế biến  tập trung xây dựng vùng nguyên liệu, đáp ứng đủ kén có chất lượng cao cho chế biến, bằng cách đổi mới giống dâu, giống tằm, đưa công nghệ tiên tiến vào sản xuất, tiết kiệm chi phí. Với các vùng trồng dâu của địa phương, TCTDTT giao cho các đơn vị thành viên phải làm tốt công tác dịch vụ tại chỗ, cung ứng giống dâu, giống tằm, chuyển giao công nghệ và bao tiêu toàn bộ sản phẩm cho nông dân. Các mô hình thâm canh dâu tằm đạt năng suất, chất lượng, hiệu quả cao phải được thực hiện thành công trong năm 2004 tại Lâm Ðồng và các vùng trồng dâu nuôi tằm truyền thống ở miền bắc và miền trung.

Về lâu dài, cần quy hoạch phát triển sản xuất dâu tằm theo hướng gắn vùng nguyên liệu với nhà máy, gắn nhà máy với người trồng dâu, nuôi tằm. Từng bước mở rộng quy mô, nhân nhanh mô hình thâm canh, chuyển nhanh giống dâu cũ bằng giống mới trên diện tích hiện có và đẩy mạnh trồng mới. Tăng cường hợp tác quốc tế, tiếp thu công nghệ mới, chủ động sản xuất trứng tằm giống mang thương hiệu Việt Nam thay thế giống phải nhập khẩu... Mục tiêu đến năm 2010, bình quân cả nước đạt 2.000 kg kén, 250 kg tơ và thu nhập 40-50 triệu đồng/ha dâu, gấp ba lần hiện nay. Quy hoạch, sắp xếp lại các nhà máy ươm tơ, dệt lụa cho hợp lý, xác định vùng nguyên liệu trọng điểm để đầu tư những nhà máy thiết bị hiện đại. Ðồng thời tăng cường đào tạo và đào tạo lại cán bộ quản lý, công nhân kỹ thuật; giúp đỡ, hướng dẫn, chuyển giao tiến bộ kỹ thuật đến người trồng dâu, nuôi tằm.

Thị trường tơ lụa đang phục hồi, có nhu cầu rất lớn. Chỉ tính riêng tơ cấp cao trong khuôn khổ Visevi hợp tác với Công ty Matsumura của Nhật Bản cũng chưa đáp ứng được bao nhiêu. Tơ lụa cấp thấp, nhu cầu của các thị trường Thái-lan, Ấn Ðộ, Bangladesh... cũng còn rất lớn. Nắm bắt thời cơ này, một mặt tiếp tục xúc tiến thương mại sang thị trường truyền thống, mở thị trường mới; mặt khác, TCT củng cố bộ máy, tổ chức lại sản xuất, nỗ lực vươn lên trong công tác dịch vụ đầu vào (cung ứng giống, công nghệ) và dịch vụ đầu ra (bao tiêu sản phẩm) nhằm khuyến khích các thành phần kinh tế cùng tham gia đầu tư phát triển dâu, tằm, tơ hiệu quả và bền vững.

HẢI TRIỀU

Có thể bạn quan tâm