Ngành công nghiệp các tỉnh phía nam vươn lên dẫn đầu toàn ngành

Để thấy rõ hơn những bước phát triển vượt bậc của ngành công nghiệp trên địa bàn các tỉnh phía nam trong 30 năm qua, cần nhìn lại xuất phát điểm của nó. Dưới thời chính quyền Sài Gòn, nền kinh tế miền nam Việt Nam là một nền kinh tế nhằm phục vụ nhu cầu chiến tranh là chính, vì vậy ngành công nghiệp vừa kém phát triển, vừa mất cân đối. Các cơ sở công nghiệp nhìn chung đều có quy mô nhỏ bé và hầu hết tập trung tại các đô thị lớn.

Về công nghiệp nặng, ngoài một số ít cơ sở cơ khí, luyện kim chủ yếu để phục vụ chiến tranh hoặc chỉ thực hiện công việc lắp ráp đơn giản (như các nhà máy Vicasa, Vikimco... chỉ cán thép xây dựng cỡ nhỏ, sản xuất dây thép gai, lưới chống đạn B.40; Caric, Ba Son chủ yếu phục vụ sửa chữa tàu chiến; Vikyno, Vinapro cũng chỉ lắp ráp máy móc nông ngư cơ công suất nhỏ, v.v...), số còn lại phần lớn chỉ là các xưởng làm dịch vụ bảo dưỡng, sửa chữa, trung tiểu tu máy móc thiết bị, gia công hàng cơ - kim khí tiêu dùng, hoàn toàn không có một cơ sở cơ khí chế tạo nào.

Trong ngành điện, cả miền nam lúc đó chỉ có một nhà máy thủy điện (Đa Nhim), vài nhà máy nhiệt điện chạy dầu, còn lại chủ yếu là các cụm phát điện diezel độc lập.

Ngành công nghiệp hóa chất cũng chỉ có một số cơ sở sản xuất sản phẩm hóa chất tiêu dùng như săm lốp, sơn, nhựa, chất tẩy rửa, bột ngọt... Đối với ngành công nghiệp nhẹ tình hình cũng không khá hơn: hàng hóa cung cấp ra thị trường chủ yếu là một số loại sản phẩm dệt, giấy, bia, nước giải khát, thuốc lá, sữa hộp, mì ăn liền, v.v... Về các khu công nghiệp (KCN) tập trung, trong khi tại miền bắc đã hình thành được một số KCN, cụm công nghiệp (theo mô hình của thời kỳ đó) như Việt Trì, Thượng Đình, Sông Công, Hải Phòng... thì cả miền nam chỉ có duy nhất một KCN Biên Hòa (KCN Biên Hòa 1 hiện nay) đang đầu tư dở dang.

Với một thực trạng như vậy, cộng thêm hàng loạt khó khăn của những ngày đầu mới giải phóng (như thiếu nguyên liệu, vật tư cho sản xuất; nhiều chủ nhà máy và nhân viên kỹ thuật, quản lý đã di tản...) nên mặc dù bản thân các nhà máy, xí nghiệp được bảo toàn khá nguyên vẹn khi chính quyền cách mạng tiếp quản, song ngành công nghiệp vẫn gần như phải gây dựng lại từ đầu.

Giai đoạn 1975 - 1980 chính là giai đoạn ngành công nghiệp phía nam phải tập trung dồn sức cho nhiệm vụ phục hồi sản xuất. Trong những tháng năm đó, miền bắc lại một lần nữa đã dành sức người, sức của chi viện cho miền nam. Hàng nghìn cán bộ quản lý, cán bộ kỹ thuật, công nhân lành nghề từ các nhà máy, xí nghiệp ở miền bắc đã được điều động vào miền nam, mang theo không chỉ kinh nghiệm mà còn cả vật tư, thiết bị, phụ tùng sửa chữa thiết yếu; hàng ngàn cán bộ, chiến sĩ quân đội được chuyển ngành bổ sung vào đội ngũ công nhân sẵn có. Các bộ, ngành trung ương đều ưu tiên cho miền nam trong việc phân bổ chỉ tiêu vật tư, kế hoạch tiêu thụ sản phẩm, đào tạo nhân lực... Nhờ vậy, chỉ trong một thời gian tương đối ngắn phần lớn các cơ sở công nghiệp đã được phục hồi và sản xuất trở lại, trực tiếp đóng góp vào sự nghiệp phát triển của ngành công nghiệp cả nước.

Những năm 80 của thế kỷ trước, trong hoàn cảnh kinh tế đất nước gặp vô vàn khó khăn do bị ảnh hưởng của chiến tranh biên giới, cấm vận, thiên tai, bão lụt, cơ chế chính sách còn nhiều bất cập..., ngành công nghiệp phía nam vẫn giữ được đà đi lên, chuyển từ giai đoạn phục hồi sang giai đoạn phát triển. Tỷ trọng của công nghiệp trên địa bàn các tỉnh phía nam trong tổng giá trị sản xuất công nghiệp toàn ngành đã tăng dần, từ khoảng 25% năm 1980 lên 33-35% thời kỳ 1989 - 1990. Thời kỳ này được đánh dấu bằng sự ra đời và phát triển của một số ngành công nghiệp mới như dầu khí, điện tử, thiết bị kỹ thuật điện, sản xuất vật liệu xây dựng...

Từ cuối năm 1980, với mục tiêu khai thác cao nhất mọi tiềm năng về phát triển công nghiệp của khu vực phía nam nhằm sớm khắc phục sự mất cân đối giữa các vùng, miền cũng như trong nội bộ mỗi vùng về cơ cấu kinh tế và trình độ phát triển, Đảng và Nhà nước đã quan tâm đẩy mạnh các biện pháp điều chỉnh cơ cấu phát triển công nghiệp, theo hướng tập trung cao cho phát triển công nghiệp phía nam, chú trọng việc đầu tư các dự án quy mô lớn, nhất là trong các lĩnh vực năng lượng, dầu khí, phân bón - hóa chất, vật liệu xây dựng, cơ khí nặng...

Về mặt chủ quan, mặc dầu đi lên từ một điểm xuất phát khá thấp, song ngành công nghiệp trên địa bàn các tỉnh phía nam lại có một lợi thế là đã sớm tiếp cận cơ chế thị trường và ít chịu ảnh hưởng của cách thức làm ăn kiểu bao cấp. Vì vậy, khi đất nước bước vào thời kỳ đổi mới, công nghiệp phía nam có điều kiện phát huy lợi thế của mình và bắt đầu có những bước phát triển mạnh mẽ.

Trong suốt thập kỷ 90, hàng loạt nhà máy, xí nghiệp được đầu tư xây dựng, hàng loạt KCN mới ra đời ở nhiều tỉnh, thành phố đã tạo ra một diện mạo mới cho công nghiệp trên địa bàn các tỉnh phía nam. Do điều kiện tự nhiên - xã hội có nhiều thuận lợi và do cơ chế, chính sách cởi mở, việc thu hút vốn đầu tư nước ngoài vào công nghiệp ở các tỉnh phía nam trong những năm đó tăng mạnh. Thời kỳ này cũng chính là thời kỳ hình thành khu vực kinh tế trọng điểm phía nam mà hạt nhân là TP Hồ Chí Minh và các tỉnh Bà Rịa - Vũng Tàu, Đồng Nai, Sông Bé (nay là Bình Dương và Bình Phước). Những năm cuối thập kỷ 90, do ảnh hưởng của cuộc khủng hoảng tài chính khu vực, tốc độ phát triển của ngành công nghiệp nói chung, trong đó có công nghiệp các tỉnh phía nam, bị chậm lại, song vẫn duy trì được ở mức hơn 10%/năm.

Bước sang thế kỷ 21, phát triển công nghiệp đang trở thành một phong trào rộng khắp. Đại hội lần thứ IX của Đảng đã đặt mốc khởi đầu cho việc đẩy mạnh công cuộc công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước. Hơn một nửa trong số 34 tỉnh, thành phố phía nam đã xác định vị trí số 1 của công nghiệp trong cơ cấu kinh tế trên địa bàn. Nhờ đó, công nghiệp khu vực phía nam tiếp tục phát triển mạnh và đạt nhiều kết quả đáng khích lệ. Năm 2004, trong số tám tỉnh, thành phố đạt giá trị sản xuất công nghiệp 10 nghìn tỷ đồng trở lên thì ở phía nam có bốn (50%), song tỷ trọng của bốn tỉnh, thành phố này trong tổng giá trị sản xuất công nghiệp cả nước đạt tới 59%. Trong số 68 KCN được thành lập theo quyết định của Thủ tướng Chính phủ (không kể khu kinh tế mở Chu Lai và khu kinh tế Dung Quất) đang hoạt động thì có 55 khu thuộc địa bàn các tỉnh phía nam. Ngoài ra, trong số 42 KCN đang trong thời kỳ xây dựng cơ sở hạ tầng, các tỉnh phía nam cũng chiếm tới 26 khu.

Về sản phẩm công nghiệp, các doanh nghiệp khu vực phía nam hiện đang chiếm ưu thế trong một số ngành như dầu khí (gần 100%), điện (khoảng 60%) dệt - may (khoảng 70%), da giày (75%), phân đạm (70%), chế biến thủy hải sản (hơn 70%),v.v... Các doanh nghiệp phía nam luôn đi đầu trong lĩnh vực đổi mới công nghệ, tiếp cận thị trường, phát triển sản phẩm mới, xây dựng phong cách làm ăn hiện đại, triển khai các hoạt động khuyến công, phát triển các KCN (bao gồm cả các khu, cụm công nghiệp nhỏ)...

Trong tiến trình hội nhập, các doanh nghiệp phía nam cũng chứng tỏ được vai trò tiên phong của mình. Với đà phát triển như vậy, có thể dự đoán rằng trong nhiều năm tới công nghiệp trên địa bàn các tỉnh phía nam sẽ vẫn giữ vị trí dẫn đầu trong toàn ngành công nghiệp.

Sở dĩ công nghiệp trên địa bàn các tỉnh phía nam có được những thành tích to lớn như vậy trước hết là nhờ sự lãnh đạo đúng đắn, tài tình của Đảng. Chính Đảng đã chỉ ra những tiềm năng to lớn cũng như những cơ hội quý giá cần tranh thủ cho phát triển công nghiệp ở khu vực này. Đảng ta cũng đã đặc biệt quan tâm việc chỉ đạo xây dựng, điều chỉnh, bổ sung chiến lược và quy hoạch phát triển cho từng vùng, từng địa bàn, từng ngành công nghiệp; xây dựng và thường xuyên hoàn thiện cơ chế, chính sách, tạo lập môi trường thuận lợi cho công nghiệp phát triển; quy hoạch, đào tạo bộ máy quản lý đáp ứng được yêu cầu của sự nghiệp công nghiệp hóa, v.v... Ngoài ra, cũng phải kể đến nhiệt tình cách mạng, tính năng động và sáng tạo cao của đội ngũ cán bộ, công nhân trong ngành công nghiệp khu vực phía nam và một số thuận lợi khách quan khác về điều kiện tự nhiên như địa lý, khí hậu, nguồn tài nguyên, khả năng cung cấp nguyên liệu, lao động.

Nhìn lại 30 năm phát triển của ngành công nghiệp trên địa bàn các tỉnh phía nam, càng tự hào về những thành tựu đạt được, chúng ta càng phải nhận thức rõ ràng hơn sứ mệnh lịch sử mà đất nước và ngành công nghiệp trao cho công nghiệp các tỉnh phía nam. Đó là: phải tiếp tục khai thác mức cao nhất mọi tiềm năng và thế mạnh, cải thiện mạnh mẽ môi trường kinh doanh, đẩy mạnh đầu tư - cả đầu tư mới và đầu tư chiều sâu, cải tiến công nghệ, nâng cao năng lực cạnh tranh, phát triển hài hòa trong sự thân thiện với môi trường, tăng cường sự phối hợp liên vùng, sớm khắc phục sự mất cân đối về trình độ phát triển giữa các vùng (trong đó đặc biệt chú trọng đẩy mạnh phát triển công nghiệp các tỉnh đồng bằng sông Cửu Long và Tây Nguyên) nhằm giữ vững vai trò đầu tàu phát triển và đưa các tỉnh phía nam - trước hết là các tỉnh vùng kinh tế trọng điểm - về đích sớm hơn trong sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước.

Có thể bạn quan tâm