Ngân hàng Ngoại thương hoàn thành đề án tái cơ cấu tài chính


Tính đến thời điểm này, Ngân hàng Ngoại thương Việt Nam (NHNT) là ngân hàng duy nhất đã đạt 100% kế hoạch xử lý nợ xấu trong Ðề án tái cơ cấu của các ngân hàng thương mại quốc doanh (NHTM) mà Thủ tướng Chính phủ đã phê duyệt. Ðề án tái cơ cấu NHNT bắt đầu từ cuối năm 2000, với những thách thức hết sức to lớn. Trước tiên là khối lượng nợ khê đọng, khó đòi của thời kỳ bao cấp và những năm đầu chuyển sang cơ chế thị trường đứng ở một mức cao (gần 4.000 tỷ và chiếm khoảng 25% tổng dư nợ của ngân hàng tại thời điểm đó). Vốn điều lệ chỉ ở mức 1.100 tỷ đồng, cộng thêm một số quỹ khác thì vốn chủ sở hữu cũng chỉ là 1.900 tỷ đồng (chiếm 3% tổng tích sản). Cùng với đó, tỷ lệ an toàn vốn CAR cũng chỉ đạt 3,1%, cách khá xa so với tỷ lệ 8% - tỷ lệ an toàn vốn tối thiểu cần đạt được theo chuẩn quốc tế. Ðan xen với đó là những khó khăn do sự mất cân đối trong tổng nguồn giữa vốn ngoại tệ và VND, phương thức quản lý còn chưa khoa học, quản trị rủi ro còn là cái gì đó chưa hình thành rõ ràng trong suy nghĩ của bộ phận lớn cán bộ, sản phẩm và khách hàng chưa đa dạng, các tiện ích về công nghệ chưa được khai thác...

Tuy thế, NHNT không phải chỉ có những khó khăn mà bên cạnh đó cũng có nhiều mặt thuận lợi căn bản như: là ngân hàng lâu năm và có kinh nghiệm, đội ngũ cán bộ khá chắc về chuyên môn, có lợi thế trong thanh toán quốc tế và một số mảng dịch vụ - sản phẩm... Chúng tôi mang những nhận xét này nói với Chủ tịch HÐQT NHNT Lê Ðắc Cù. Ông tâm sự: "Với hơn 40 năm làm trong ngành thì có tới 32 năm ở ngoại thương vì thế mình ý thức được rất rõ những thách thức và thuận lợi của NHNT. Nhưng không phải chỉ cần triển khai một cách đơn giản, tự nhiên là có thể vượt qua khó khăn và phát huy được thế mạnh mà mình có. Những gì mà NHNT đạt được hôm nay là nhờ những quyết sách đã vạch ra được ban điều hành triển khai hết sức mạnh bạo, sáng tạo và nhất là luôn không thiếu sự quyết liệt".

Tổng giám đốc NHNT Vũ Viết Ngoạn cho biết, NHNT khi thực hiện đề án rõ ràng đã có được sự ủng hộ của Chính phủ trong việc xử lý nợ (nợ nhóm 2), cơ chế chính sách bổ sung vốn, cấp vốn; sự chỉ đạo sát của NHNN. Song từ trong suy nghĩ, phía ban lãnh đạo NHNT luôn thấy được bên cạnh NHNT còn có các ngân hàng khác mà Chính phủ cũng phải quan tâm thực hiện hỗ trợ; rồi nợ nhóm 2 có được giải quyết thuận lợi cũng chỉ mới là gần 20% tổng số nợ cần phải giải quyết. Với những đánh giá thực tế một cách cầu thị như thế, ban lãnh đạo NHNT đã nhanh chóng đi đến thống nhất được quyết tâm triển khai đề án với phương châm "chủ động, sáng tạo, mạnh dạn và nỗ lực cao nhất".

Ba năm qua, một khối lượng lớn công việc đã được triển khai khẩn trương và hiệu quả trên toàn bộ hệ thống NHNT. Bên  những nỗ lực cao trong triển khai các dự án do Ngân hàng Thế giới tài trợ các NHTM Việt Nam, NHNT những năm qua đã mạnh bạo trong việc đầu tư đổi mới công nghệ, phát triển các sản phẩm dịch vụ tiện ích... Hiện nay chưa có một ngân hàng nào trong ba năm qua lại tổ chức nhiều hoạt động công bố những sản phẩm, dịch vụ, gói sản phẩm - dịch vụ ra thị trường nhiều như NHNT. Từ những sản phẩm cho doanh nghiệp, định chế tài chính (VCB - online, E-banking,  VCB-Money...); sản phẩm cho thể nhân (Thẻ ghi nợ nội địa Connect 24, thẻ tín dụng Amex, thanh toán tiền điện thoại qua thẻ với dịch vụ VCBP...), thậm chí cả những sản phẩm liên kết (liên kết phát hành thẻ với 11 ngân hàng cổ phần, liên kết thanh toán phí với các công ty bảo hiểm Prudential, AIA...). Song quan trọng hơn hết là những sản phẩm, dịch vụ, gói sản phẩm - dịch vụ này đã được cộng đồng doanh nghiệp, thể nhân, giới tài chính không chỉ trong nước mà nước ngoài đón nhận và đánh giá cao. Từ đó ngân hàng có được lợi ích trong thu nhập, trong phát triển thương hiệu và dĩ nhiên không thể phủ nhận điều này cũng mang lại cả những lợi ích cho hệ thống ngân hàng trong nước.

TRONG ba năm (1998 - 2000), bình quân lãi gộp mỗi năm của NHNT là 500 tỷ đồng. Từ năm 2001 đến năm 2003, lãi gộp của ngân hàng này đã đạt bình quân 1.300 tỷ đồng/năm. Ðây là kết quả của các bước tăng trưởng hết sức ấn tượng mà những sản phẩm, dịch vụ, gói sản phẩm - dịch vụ mới đạt tới, và đương nhiên trong đó không thể thiếu vai trò rất quan trọng của những phương thức điều hành táo bạo và đúng đắn đưa tới những thành quả chung. Ðơn cử như lĩnh vực thẻ, trong giai đoạn 2000 - 2003, nhờ sự mạnh dạn trong đầu tư mà NHNT đã có được sự tăng trưởng tới bảy lần của số lượng thẻ tín dụng quốc tế, số thẻ ghi nợ Connect 24 trong chưa đầy hai năm đã phát hành được 200.000 thẻ, doanh số thu phí dịch vụ thẻ tăng ba lần... Những kết quả khả quan từ kinh doanh như trên cho phép NHNT có nguồn để trích lập được hơn 3.000 tỷ đồng cho việc xử lý nợ xấu trong ba năm cũng như tự tăng vốn, tiếp cận những công nghệ mới tiên tiến nhưng đòi hỏi cao về chi phí... Ngoài ra, là một đơn vị luôn làm tốt nghĩa vụ thuế với nhà nước, mức tăng trưởng cao đạt được trong hoạt động kinh doanh, còn giúp NHNT có những đóng góp hết sức to lớn cho ngân sách nhà nước. Chỉ tính từ năm 2000-2003, NHNT đã nộp cho ngân sách nhà nước 821,037 tỷ đồng tiền thuế, trong đó có hơn 74 tỷ đồng được NHNT nộp trước kế hoạch.

Ðầu năm 2004, các chỉ số quan trọng của NHNT đều đã có những bước tiến rất khả quan. Với 300 tỷ đồng tự bổ sung từ nguồn lợi nhuận năm 2003 sau khi trích đủ các quỹ, vốn chủ sở hữu của NHNT đã đạt hơn 4.000 tỷ đồng, nâng hệ số an toàn CAR lên gần 4%; nợ quá hạn chỉ chiếm 2% trong tổng dư nợ 36.800 tỷ đồng hiện hành của ngân hàng này; cơ cấu vốn VND đã chiếm hơn 42% tổng nguồn; NHNT hiện vẫn chiếm 30% thị phần thanh toán XNK của toàn quốc và tiếp tục đang giữ vị trí chủ đạo trên thị trường liên hàng...

Có thể bạn quan tâm