Tuyển sinh đại học

Nên dùng phương pháp trắc nghiệm hay tự luận?

Kỳ thi tuyển sinh đại học, cao đẳng năm 2004 vừa kết thúc. Sự nỗ lực của Bộ Giáo dục và Ðào tạo với nhiều cải tiến mới đã đem lại một mùa thi khá an toàn và nghiêm túc.

Xin hoan nghênh điều đổi mới: mỗi thí sinh chỉ đăng ký một nguyện vọng. Như vậy, gọn và đơn giản cho việc xét đợt đầu. Sau đó, những ai không trúng được quyền dùng kết quả thi để xin được xem xét tại trường đang thiếu chỉ tiêu hoặc không tổ chức thi tuyển. Có điều là phải giữ được nghiêm túc việc xét tuyển từ đầu chí cuối, tránh cảnh "chợ chiều" khi xét tuyển, tạo kẽ hở cho những tiêu cực phát sinh. Việc hạ mức chênh lệch ưu tiên vùng từ 1 điểm xuống nửa điểm cũng sẽ đem lại những hiệu quả tốt. Việc này đáng lẽ ra nên làm sớm hơn. Ưu tiên vùng là một biện pháp tình thế dựa trên lập luận rằng: "Có cán bộ kém còn hơn là không có cán bộ". Nhưng cái "hơn" đó phải trả giá khá đắt.

Trong giai đoạn hiện nay, ở biên giới, hải đảo và nhiều vùng xa xôi hẻo lánh thường lại có tầm quan trọng về an ninh - quốc phòng và kinh tế. Chủ trương ưu tiên cộng điểm là cần thiết nhưng phải phấn đấu cật lực để không kéo dài. Toàn quốc nên giúp đỡ các vùng xa xôi hẻo lánh củng cố thật tốt các trường tạo nguồn (như các trường phổ thông dân tộc nội trú) để các cháu vào đấy học chả kém gì học sinh các vùng đông dân, ngay từ lớp một để trong một thời gian càng ngắn càng tốt, ta có thể xóa bỏ hoàn toàn chính sách cộng điểm.

Chính sách này còn có mặt không hay là gây ra tư tưởng ỷ lại ở thanh, thiếu niên, không chịu khó phát huy nội lực tự học, đồng thời là kẽ hở cho tiêu cực phát sinh (học ở đô thị nhưng chạy cho được hộ khẩu ở miền núi).

Rồi "dự bị đại học" cũng phải tính toán. Ngày xưa, ta có khẩu hiệu "miền núi tiến kịp miền xuôi", sau này ít được nhắc đến. Ngày nay, nên hồi phục khẩu hiệu đó không phải một cách duy ý chí mà một cách khoa học. Trình độ nước ta hiện nay về kinh tế và về khoa học, công nghệ cho phép làm được như vậy.

Tuy nhiên, báo chí có đưa tin, việc dùng trắc nghiệm để tuyển sinh đại học đang được chuẩn bị tích cực, cố gắng đến năm 2006 thì bắt đầu. Không rõ đó có phải là chủ trương cải tổ một cách cơ bản thi tuyển sinh đại học hay không?

Ai cũng biết rằng trong thi trắc nghiệm, người ta đặt ra những câu hỏi, mỗi câu kèm theo một đáp án đúng lẫn vào vài đáp án sai, và thí sinh (sau đây chỉ thí sinh được hiểu rộng là cả học sinh làm bài kiểm tra trên lớp) phải chỉ ra đáp án nào là đáp án đúng (chẳng hạn bằng cách gạch chéo vào một ô). Cách trả lời đơn giản như vậy có mấy cái lợi sau đây :

Chấm dễ dàng và do đó có thể giao cho máy tính điện tử chấm cực nhanh; chấm bằng máy như  vậy rất khách quan; trả lời nhanh thì trong thời gian một buổi thi có thể ra hàng trăm câu hỏi bao trùm lên toàn bộ chương trình môn thi, do vậy mà vô hiệu hóa được việc học tủ (nếu có) của thí sinh.

Tuy nhiên tất cả các thuận lợi trên đều phải trả giá: Một là, thí sinh trả lời nhanh thì việc đặt câu hỏi cho thí sinh lại rất vất vả, tốn kém. Ðặt được một câu hỏi trắc nghiệm là công phu: người đặt câu hỏi phải giàu kinh nghiệm dạy học để lường trước các kiểu sai sót mà thí sinh có thể phạm phải khi trả lời câu hỏi. Ứng với mỗi kiểu sai sót (dự kiến) người đặt câu hỏi xây dựng nên một đáp án sai để giăng bẫy cho thí sinh chọn đáp án đó nếu anh ta quả thật phạm kiểu sai sót đó. Như vậy chỉ thí sinh nào không phạm sai sót kiểu nào cả mới chọn được đáp án đúng. Trong một buổi thi phải đặt hàng trăm câu hỏi thì công sức bỏ ra là rất lớn so với việc chuẩn  một đề thi tự luận. Lập được ngân hàng đề thi cho mọi kỳ thi trắc nghiệm lại càng vất vả bởi lẽ ngân hàng đó không thể dùng mãi được mà phải đổi mới vì nếu dùng mãi thì đáp án đúng cho từng câu hỏi sẽ dần dần lộ ra hết. Tính "khách quan" phải trả giá bằng việc không tận dụng được "chủ quan" của những thầy giỏi: Thầy giỏi có con mắt tinh đời để thấy ra cái hay, cái dở trong câu trả lời của thí sinh, kể cả khi cái hay, cái dở ẩn náu rất tinh vi; trong dạy học, việc phát hiện ra cái hay, cái dở ẩn náu tinh vi có giá trị giáo dục rất lớn.

Thời đại ngày nay thì "óc sáng tạo" là thứ tài nguyên quý giá nhất để thắng trong cuộc cạnh tranh quyết liệt. Nhiều nghị quyết của Ðảng ta  cũng đã nhấn mạnh đếnviệc rèn nếp tư duy sáng tạo cho người học. Trong thi trắc nghiệm, dù có giỏi giăng bẫy đến đâu thì cũng chỉ kiểm tra được kiến thức và tư duy lô-gic. Trắc nghiệm không kiểm tra được tư duy biện chứng và tư duy hình tượng là hai loại tư duy số 1 và số 2 trong sự sáng tạo, tư duy lô-gic thường chỉ đóng vai trò thiết kế và thi công theo sự hướng dẫn của hai tư duy trên. Tâm lý xã hội ở nước ta rất nhạy cảm với tuyển sinh đại học. Nếu đưa trắc nghiệm vào chỗ nhạy cảm này thì chắc chắn sẽ gây ra cơn sốt trắc nghiệm trong nhà trường và sẽ đẩy lùi tự luận, mà tự luận mới có khả năng đi sâu vào việc đánh giá, rèn luyện tư duy sáng tạo.

Tự luận là việc quen thuộc ở nhà trường chúng ta rồi, còn trắc nghiệm còn là chuyện mới mẻ. Cái đáng ngại là chỗ đó vì tự luận, tuy quen thuộc nhưng lại ở trình độ thấp. Ðiều đó biểu hiện rõ ở chỗ cả một thời gian dài, việc ra đề thi lắt léo, đánh đố lại được coi là cách thử thách trí thông minh sáng tạo(!). Vài năm nay cách ra đề thi đó đã bị loại trừ nhưng lại chưa có cái gì thay thế để thử óc sáng tạo. Loài người đã có sáng tạo học (STH-Creatolory) là môn khoa học chuyên đi sâu khám phá ra cái quy luật về sáng tạo rồi vận dụng chúng để "dạy" và "học" sáng tạo, còn Việt Nam chưa có STH.

STH ra đời trước hết ở Liên Xô (cũ) với cơ sở triết học là triết học duy vật biện chứng. Không rõ có phải vì STH có cơ sở triết học là triết học DVBC mà các nước phát triển phương Tây đều chậm chân trong lĩnh vực này. Nhưng khi nhận ra tầm quan trọng có ý nghĩa chiến lược của STH thì họ cố chạy để khắc phục sự lạc hậu của mình. Nước phát triển cao như Mỹ, đã có hẳn một ngành công nghiệp trắc nghiệm (Educational Tesadting Servicer) từ năm 1947, thì mãi đến thập kỷ 90 của thế kỷ trước mới lo hối hả chạy đuổi (như dịch sách Nga) và trong một thời gian tương đối ngắn họ đã xây dựng được viện nghiên cứu, tổ chức đào tạo trên đại học về STH. Ðiều đó chứng tỏ tầm quan trọng của óc sáng tạo và STH.

Hiện nay, Việt Nam đều kém cả về trắc nghiệm lẫn tự luận. Trắc nghiệm cũng rất tiện lợi trong việc đo lường chất lượng giáo dục nhưng bị hạn chế trong việc đo lường này phải dựa trên cơ sở STH là lĩnh vực khoa học mà ta chưa có. Với tầm nhìn chiến lược về "óc sáng tạo", chúng ta phải rất thận trọng cân nhắc, đừng để "trắc nghiệm" lấn át, đẩy lùi tự luận trong thi cử, kiểm tra, đánh giá. Riêng đối với tuyển sinh đại học, tôi thấy có thể làm như sau: dùng trắc nghiệm để loại đi những người quá kém. Việc đặt ra những câu hỏi làm bộc lộ ra những điều thô kệch trong kiến thức và tư duy đỡ mất công hơn việc đặt ra những câu hỏi làm lộ ra những điều tinh vi. Hơn nữa, chỉ cần hai giờ thi là đủ phát hiện các yếu kém thô kệch.

Ðó là vòng đầu của tuyển sinh. Ở vòng sau, thí sinh sẽ được thử thách không phải bằng ba bài thi mà bằng cách cho học thử đại học nữa trong một học kỳ.

Ðể phát triển nguồn nhân lực cho đất nước cũng rất cần phát triển hình thức đào tạo đại học từ xa. Một là "từ xa" có thể chấp nhận số lượng lớn, dung nạp hết số thí sinh lọt qua vòng đầu; hai là "từ xa" thử thách khả năng tự học là cái hiện nay còn rất thiếu trong giáo dục đại học ở nước ta. Có "tự học" mới phát triển được tư duy độc lập, bước đầu của tư duy phê phán và tư duy sáng tạo. Thi ba môn thì còn có chuyện may rủi, còn thử thách cả một học kỳ sẽ loại trừ được "may rủi". Ðồng thời, cũng là cách để đẩy mạnh giáo dục tức là cái mà ta đang phấn đấu để xây dựng xã hội học tập.

Có thể bạn quan tâm