Bệnh ung thư đang trở thành gánh nặng tại nhiều quốc gia trên thế giới, trong đó, ung thư vú là bệnh ung thư thường gặp nhất ở phụ nữ. Thống kê của Tổ chức Ung thư toàn cầu (GLOBOCAN), trong năm 2020 toàn thế giới có tới hơn 2,2 triệu phụ nữ được phát hiện ung thư vú và có tới gần 685 nghìn trường hợp tử vong do căn bệnh này.
Tại Việt Nam, năm 2020 ước tính cả nước có 21.555 người mắc mới ung thư vú được phát hiện bệnh và 9.345 bệnh nhân tử vong, chiếm khoảng 25,8% tổng số các trường hợp mắc các bệnh ung thư ở phụ nữ. Đáng lo ngại, tỷ lệ người mắc ung thư vú đang có xu hướng ngày càng trẻ hóa. Mặt khác, do yếu tố tâm lý cho nên nhiều phụ nữ còn e ngại, trì hoãn việc khám sàng lọc để được phát hiện sớm bệnh. Còn rất nhiều phụ nữ tới bệnh viện thăm khám thì đã ở giai đoạn muộn, khiến việc điều trị gặp nhiều khó khăn, hiệu quả kém. Trong khi đó, việc tầm soát phát hiện sớm có ý nghĩa đặc biệt quan trọng. Nếu được phát hiện sớm, tỷ lệ chữa khỏi có thể lên đến 90%, cùng với đó chi phí thấp và hiệu quả điều trị cũng tốt.
Đáng lo ngại, tỷ lệ người mắc ung thư vú đang có xu hướng ngày càng trẻ hóa.
Điều trị bệnh ung thư vú hiện nay đã có những bước tiến lớn về các phương pháp: Phẫu thuật, xạ trị, hóa trị; kết hợp các phương pháp khác như: liệu pháp nội tiết tố, liệu pháp nhắm trúng đích, liệu pháp miễn dịch và thực tế đã cải thiện đáng kể chất lượng điều trị ung thư vú.
Việc phát hiện, chẩn đoán sớm bệnh ung thư có vai trò quan trọng trong điều trị và tiên lượng. Thống kê tại Hoa Kỳ cho thấy, nếu ung thư vú được chẩn đoán điều trị sớm thì tỷ lệ sống sau 5 năm của người bệnh lên tới hơn 90%; tại các nước châu Á tỷ lệ này khoảng từ 56,5% đến 86,7%.
Tại một số quốc gia Đông Nam Á như Malaysia, Thái Lan, những trường hợp được chẩn đoán ở giai đoạn sớm (0, I, II) có tỷ lệ sống thêm 5 năm có thể từ 80,7% đến 94,4%, trong khi nếu chẩn đoán ở giai đoạn muộn (III, IV) chỉ là 23,3% đến 59,7%.
Tại Việt Nam, theo số liệu của Bệnh viện K, những năm gần đây tỷ lệ khám phát hiện ung thư vú giai đoạn sớm (giai đoạn 0, I, II) đã đạt hơn 70% và tỷ lệ chữa khỏi ung thư vú cũng đã đạt 70% ngang bằng với các nước tiên tiến trong khu vực và thế giới. GS, TS Lê Văn Quảng, Giám đốc Bệnh viện K cho biết, việc phát hiện càng sớm thì việc điều trị càng đơn giản, hiệu quả, tỷ lệ chữa khỏi cao và chi phí điều trị thấp. Tuy nhiên, yếu tố tiên quyết vẫn là việc điều trị khi ung thư đang ở giai đoạn sớm. Chính vì vậy, việc tầm soát và phát hiện sớm ung thư vú ngay khi phụ nữ sang độ tuổi có nguy cơ mắc bệnh cao (từ độ tuổi 40 trở lên) là rất quan trọng.
PGS, TS Nguyễn Thị Xuyên, Chủ tịch Quỹ Hỗ trợ bệnh nhân ung thư-Ngày mai tươi sáng, nhấn mạnh: Thông qua chiến dịch truyền thông nâng cao nhận thức về bệnh ung thư vú, chúng tôi mong muốn phụ nữ Việt Nam sẽ được trang bị các kiến thức cũng như nâng cao nhận thức về căn bệnh gây tử vong này. Mỗi người phụ nữ hãy biết cách chăm sóc sức khỏe bản thân, nhất là chủ động thực hiện định kỳ thói quen tầm soát ung thư vú.
Tại Việt Nam, theo số liệu của Bệnh viện K, những năm gần đây tỷ lệ khám phát hiện ung thư vú giai đoạn sớm (giai đoạn 0, I, II) đã đạt hơn 70% và tỷ lệ chữa khỏi ung thư vú cũng đã đạt 70% ngang bằng với các nước tiên tiến trong khu vực và thế giới.
Thực hiện năm bước cần thiết để phát hiện sớm ung thư vú, để điều trị đạt hiệu quả cao: Biết nguy cơ của mình mắc ung thư vú; biết cách mình có thể làm giảm nguy cơ; biết tự khám vú đúng cách; biết khi nào cần đi khám, phát hiện sớm: Là khi có các dấu hiệu, triệu chứng nghi ngờ; biết nơi khám ung thư vú.
Triển khai chiến dịch truyền thông năm nay, Quỹ Hỗ trợ bệnh nhân ung thư-Ngày mai tươi sáng triển khai hàng loạt hoạt động dành cho người bệnh ung thư vú trên cả nước. Theo đánh giá của Bộ Y tế, đây là chiến dịch sức khỏe dành riêng cho phụ nữ Việt Nam gây được hiệu ứng tích cực trong những năm qua.