Năm giải pháp phát triển và ứng dụng thuốc bảo vệ thực vật sinh học

NDO - Nghiên cứu, sản xuất và sử dụng thuốc bảo vệ thực vật (BVTV) sinh học đã được thực hiện ở nước ta trong nhiều năm qua. Tuy nhiên, việc sử dụng trong sản xuất đại trà còn hạn chế. Ðể góp phần ổn định chất lượng nông sản, bảo đảm an toàn thực phẩm, chúng ta cần có các giải pháp đồng bộ đẩy mạnh việc sản xuất và ứng dụng thuốc BVTV sinh học.

Nhận thức được tầm quan trọng của việc ứng dụng các sản phẩm thuốc BVTV sinh học trong sản xuất nông sản an toàn, Bộ Khoa học và Công nghệ, Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn đã hỗ trợ các viện nghiên cứu thực hiện nhiều đề tài, dự án phát triển thuốc BVTV sinh học. Qua đó, đã tạo được nhiều sản phẩm sinh học tiên tiến, có khả năng sử dụng như một giải pháp thay thế hiệu quả để ứng dụng trong sản xuất nông sản an toàn.

Các sản phẩm có thể tạo ra bằng nhiều con đường khác nhau như chế phẩm sản xuất từ vi-rút (NPV), vi khuẩn (Bacillus thuringiensis), các loại nấm côn trùng (Metarhizum, Beauvenia), nấm đối kháng (Trichoderma), tuyến trùng... cũng như các độc tố được chiết xuất từ các loài thực vật có hoạt tính trừ sâu như xoan Ấn Ðộ, Deris, cây thanh hao. Tuy nhiên, mức độ thành công trong nghiên cứu, phát triển và ứng dụng các sản phẩm sinh học còn tùy thuộc vào từng tác nhân sinh học được ứng dụng trong công tác BVTV.

Từ năm 1990 trở lại đây, việc nghiên cứu và ứng dụng các chế phẩm sinh học trong BVTV đã được Nhà nước và các cơ quan khoa học quan tâm đầu tư và đã đạt được những kết quả bước đầu. Tuy nhiên, việc triển khai sản xuất và ứng dụng trong thực tế vẫn còn gặp nhiều khó khăn. Cho đến nay, tỷ trọng thuốc BVTV sinh học vẫn chỉ chiếm khoảng 5% so với tổng lượng thuốc BVTV sử dụng trong sản xuất.

Khắc phục những nhược điểm của các thuốc sinh học truyền thống (sản xuất từ dây chuyền lên men vi sinh vật sống), gần đây trên thế giới đã nghiên cứu và phát triển thành công một số thuốc sinh học thế hệ mới được sản xuất theo quy trình chiết xuất các độc tố của vi sinh vật như nấm, xạ khuẩn hay hoạt chất độc của các loài cây độc. Công nghệ này cho phép tạo ra sản phẩm có phổ tác động rộng hơn, hiệu lực cao và ổn định hơn, cũng như giá thành hạ do có thể sản xuất ở quy mô hàng hóa lớn.

Do nhận thức được ưu điểm nổi bật của thuốc trừ sâu sinh học là ít độc, an toàn trước hết cho người sử dụng, góp phần đáng kể tạo ra sản phẩm an toàn nên hiện nay việc sử dụng chúng trong sản xuất rau đã được nhiều nông dân quan tâm. Tuy nhiên, do vẫn còn nhiều trở ngại về hiệu quả trừ sâu, giá thành và thói quen trong sử dụng, tỷ lệ thuốc BVTV sinh học được ứng dụng trong sản xuất vẫn còn rất thấp.

Ðể đẩy nhanh việc ứng dụng các sản phẩm sinh học vào sản xuất nông sản an toàn, Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn cũng như Bộ Khoa học và Công nghệ đã hỗ trợ các địa phương thực hiện một số dự án chuyển giao KTTB và ứng dụng sản phẩm sinh học phục vụ sản xuất nông sản an toàn như: Dự án sản xuất thử nghiệm: "Xây dựng mô hình ứng dụng thuốc BVTV sinh học để xây dựng vùng sản xuất rau an toàn tại Vĩnh Phúc" do Chương trình nông thôn và miền núi hỗ trợ. Kết quả bước đầu cho thấy các dự án đã thu được nhiều kết quả quan trọng như:

Lựa chọn các sản phẩm phù hợp, có hiệu quả kỹ thuật cao cho từng đối tượng dịch hại và từng loại cây trồng. Ðánh giá được các yếu tố tác động đến hiệu quả của các sản phẩm sinh học và giải pháp khắc phục, từ đó góp phần hoàn thiện quy trình ứng dụng đồng bộ các sản phẩm sinh học để có thể nhân rộng sử dụng một cách bền vững.

Xây dựng được các mô hình ứng dụng sản phẩm sinh học để sản xuất rau an toàn theo chu trình khép kín từ sản xuất đến tiêu thụ. Qua các mô hình đã khẳng định các thuốc BVTV sinh học có thể thay thế từ 60 đến 70% thuốc hóa học, điều này đặc biệt có ý nghĩa trong việc phòng trừ dịch hại ở giai đoạn cận thu hoạch và đang trong chu kỳ thu hoạch (với các loại rau gối lứa). Từ đó, tạo điều kiện thuận lợi cho công tác giám sát, cấp chứng chỉ sản phẩm, nâng cao được uy tín, giá trị của sản phẩm trên thị trường, tăng thêm thu nhập cho người sản xuất.

Các kết quả bước đầu cũng cho thấy, cần có giải pháp đồng bộ để đẩy nhanh việc sản xuất và ứng dụng các sản phẩm sinh học BVTV phục vụ sản xuất nông sản an toàn:

Một là, Nhà nước có chính sách hỗ trợ các doanh nghiệp trong việc ưu tiên đăng ký sản phẩm; hỗ trợ tiếp nhận công nghệ và vay vốn để xây dựng các dây chuyền sản xuất sản phẩm sinh học trên quy mô lớn ngay trong nước nhằm ổn định chất lượng và hạ giá thành.

Hai là, có chính sách hỗ trợ và ưu đãi các doanh nghiệp đầu tư khai thác các nguồn nguyên liệu tại chỗ, nhất là các nguồn mà Việt Nam có lợi thế như các loại cây độc làm thuốc thảo mộc (ruốc cá, trẩu, sở, xoan ta, xoan Ấn Ðộ) hay khai thác các nguồn phụ phẩm như bã sở, hạt chè để sản xuất thuốc BVTV sinh học.

Ba là, song song với việc đẩy mạnh ứng dụng các thuốc BVTV sinh học cũng cần đầu tư nghiên cứu, ứng dụng các sản phẩm phân bón sinh học để bảo đảm các chỉ tiêu an toàn thực phẩm khác có liên quan như dư lượng kim loại nặng hay nitrat. Có như vậy mới thúc đẩy được thị trường tiêu thụ sản phẩm, từ đó thúc đẩy việc ứng dụng các sản phẩm sinh học BVTV.

Bốn là, mở rộng phạm vi nghiên cứu và ứng dụng sản phẩm sinh học sang các cây trồng khác, nhất là các cây trồng nhạy cảm với an toàn thực phẩm như chè, cây ăn quả... để thúc đẩy thị trường tiêu thụ sản phẩm sinh học.

Năm là, tăng cường tuyên truyền, nâng cao nhận thức và kiến thức cho người dân. Ðẩy mạnh xây dựng và nhân rộng mô hình ứng dụng sản xuất sinh học.