Báo cáo nêu rõ, Mỹ phải xem xét lại hồ sơ nhân quyền của chính mình, chấm dứt việc mượn chiêu bài nhân quyền để thi hành chính sách áp đặt, xâm phạm chủ quyền của các dân tộc, can thiệp nội bộ của các nước khác. Dưới đây là nội dung Báo cáo đó.
Ngày 8-3, Bộ Ngoại giao Mỹ một lần nữa đóng vai "quan tòa của thế giới về nhân quyền", đưa ra Báo cáo về tình hình nhân quyền tại các nước năm 2005. Cũng như các năm trước, Bộ Ngoại giao Mỹ phán xét tình hình nhân quyền ở hơn 190 nước và vùng lãnh thổ, trong đó có Trung Quốc, nhưng tịnh không một lời về những vi phạm nghiêm trọng nhân quyền ở chính nước Mỹ. Ðể giúp mọi người hiểu rõ sự thật kẻ tự phong là "người bảo vệ nhân quyền", cần phải điều tra các vụ vi phạm nhân quyền ở Mỹ năm 2005.
Về cuộc sống và an ninh cá nhân của người dân
Trong thời gian dài, cuộc sống và an ninh cá nhân của người dân Mỹ không được bảo vệ một cách hiệu quả. Xã hội Mỹ đầy rẫy tội phạm bạo lực. Mỗi năm trên toàn nước Mỹ xảy ra 50 nghìn vụ tự sát và cố sát (báo Bưu điện Washington, 12-10-2005).
Bộ Tư pháp Mỹ, ngày 25-9-2005, cho biết, đã xảy ra 5.182.670 vụ phạm tội bạo lực ở Mỹ năm 2004. Cứ 1.000 người tuổi từ 12 trở lên thì 21,4 là nạn nhân, tính ra cứ 47 công dân Mỹ thì một là nạn nhân của vụ phạm tội bạo lực (Bưu điện Washington, 26-9-2005).
Theo số liệu của Cục Ðiều tra Liên bang Mỹ (FBI), các vụ giết người tăng 2,1% trên toàn nước Mỹ trong sáu tháng đầu năm 2005 so với cùng giai đoạn năm 2004. 4.080 vụ giết người diễn ra ở các thành phố hơn 10.000 dân, trong khi số vụ cố sát tăng 13% ở các thành phố có số dân dưới 10.000 người (báo Nước Mỹ ngày nay, 20-12-2005).
Tại thủ đô Washington (dân số chưa đến 600 nghìn người) xảy ra 194 vụ bạo sát năm 2005 (Bưu điện Washington, 2-1-2006).
Tại Chicago, số vụ phạm tội hình sự các loại vượt 125 nghìn vụ, tính từ tháng 1 đến 9-2005, trong đó có 352 vụ giết người, 11.564 vụ cướp, 8.903 vụ tiến công và 534 vụ phóng hỏa (http://egov.cityofchicago.org).
Từ tháng 1 đến giữa tháng 11-2005, tại Philadelphia có 334 người bị giết, vượt số người bị giết ở thành phố này năm 2004 (Tin hàng ngày Philadelphia, 14-11-2005).
Trong nửa đầu năm 2005, tại Los Angeles xảy ra 198 vụ giết người, tăng 11% so với cùng kỳ năm 2004 (Thời báo Los Angeles, 2-7-2005). 72 người bị giết tại Compton (bang California), nơi chỉ có 96 nghìn dân (Thời báo Los Angeles, 2-1-2006). TP Camden, bang New Jersey trở thành thành phố nguy hiểm nhất nước Mỹ, với tỷ lệ vụ cố sát lớn hơn 10 lần tỷ lệ trung bình toàn quốc, và tỷ lệ vụ cướp lớn hơn 7 lần tỷ lệ trung bình toàn quốc (Bưu điện Washington, 22-11-2005).
Nước Mỹ có số cá nhân sở hữu súng nhiều nhất thế giới. Theo số liệu Phong trào Brady (tổ chức ngăn chặn bạo lực súng) công bố 6-2005, xấp xỉ 192 triệu vũ khí do cá nhân sở hữu ở Mỹ (http://www.bradycampaign.org/facts/factsheets/).
Theo thăm dò của báo Bưu điện Washington và tập đoàn truyền thông Mỹ ABC, khoảng 10% số người được hỏi cho biết đã một lần bị bắn, 14% từng bị đe dọa bằng súng.
Theo số liệu Cục Thống kê tư pháp thuộc Bộ Tư pháp Mỹ công bố năm 2005, trong năm 2004 tại Mỹ xảy ra 339.200 vụ phạm tội hình sự liên quan súng, trong đó 11.300 vụ giết người, 162.900 vụ cướp và 165.000 vụ tiến công (http://www.ojb.usdoj.gov/bjs).
Báo Bưu điện Washington, ngày 25-12-2005, cho biết, mỗi năm gần 12.000 người Mỹ dùng súng giết người. Theo các báo cáo của cảnh sát Mỹ về các vụ phạm tội hình sự năm 2004, 70% số vụ giết người, 41% số vụ cướp và 19% số vụ tiến công người dân liên quan súng. Việc sử dụng súng tràn lan các loại không kiểm soát được đã gây hàng loạt vụ giết người.
Tháng 2-2005, mẹ và chồng thẩm phán Mỹ Joan Humphrey Lefkow bị bắn chết tại nhà ở Chicago. Tháng 3, một kẻ tình nghi hiếp dâm đã giết một thẩm phán và hai người khác tại tòa án ở hạt Fulton bang Atlanta và cướp 4 ô-tô để đào tẩu. Ngày 12-3, một tay súng bắn những người đang làm lễ nhà thờ tại khách sạn Sheraton ở Brookfield, bang Wisconsin, giết bảy người và làm bị thương bốn người. Ngày 21-3, Jeff Weise, 17 tuổi, giết ông bà của mình sau đó còn vãi đạn vào Trường trung học Red Lake ở khu bảo tồn Indian bắc bang Minnesota, giết 8 người gồm một nhân viên bảo vệ trường, một giáo viên và sáu học sinh, làm bị thương 14 người (CNN, 21-3-2005).
Ngày 25-4, một em gái 14 tuổi bắn chết bố mình ở bang Colorado. Vào ngày Giáng sinh năm 2005, một người đàn ông bắn chết mẹ anh ta tại nhà ở ngoại ô bang Washington, sau đó lái xe 8 dặm tới một nhà khác giết ba người khác trước khi quay súng tự sát (AP, 30-4-2005).
Về những vụ các cơ quan thi hành pháp luật và tố tụng vi phạm nhân quyền
Ðã xảy ra những vụ các cơ quan thi hành pháp luật và tố tụng vi phạm nghiêm trọng các quyền và tự do cá nhân ở Mỹ.
Các vụ rình mò bí mật và bắt giữ bất hợp pháp xảy ra thường xuyên. Vụ bê bối Snoopgate bị phát lộ gần đây đang thu hút sự chú ý của dư luận Mỹ. Sau vụ khủng bố ngày 11-9-2001, Tổng thống Mỹ đã hàng chục lần cho phép Cơ quan An ninh quốc gia (NSA) và các bộ khác nghe trộm một số cuộc điện thoại trong nước, theo đó NSA đã theo dõi các cuộc điện thoại và thư điện tử của 500 công dân Mỹ. Có tin nói, từ 2002 đến 2004, ít nhất 287 vụ các nhân viên đặc biệt FBI bị nghi ngờ đã tiến hành theo dõi điện tử bất hợp pháp.
Một nhân viên FBI đã theo dõi bí mật một công dân Mỹ trong suốt 5 năm mà không thông báo cho Bộ Tư pháp Mỹ biết. Ngày 21-12-2005, Thượng viện Mỹ bỏ phiếu gia hạn Luật yêu nước, làm dấy lên lo ngại trong dư luận Mỹ. Luật này tạo điều kiện dễ dàng hơn cho các nhân viên FBI giám sát các cuộc điện thoại và thư điện tử, lục soát nhà và văn phòng, thu thập hồ sơ hoạt động của những người bị tình nghi khủng bố (Bưu điện Washington, 22-12-2005).
Theo tin ngày 13-12-2005 của Công ty truyền thông quốc gia Mỹ, Bộ Quốc phòng Mỹ đã bí mật thu thập thông tin về các công dân Mỹ phản đối chiến tranh Iraq và bí mật theo dõi tất cả các cuộc hội nghị vì hòa bình và chống chiến tranh.
Theo bài báo đăng ngày 20-12-2005 của Thời báo New York, trong những năm gần đây, FBI đã thu thập thông tin về một số lớn các tổ chức phi chính phủ đã tham gia các cuộc biểu tình phản đối chiến tranh ở Mỹ thông qua mạng lưới theo dõi và các kênh khác. Số lượng thông tin thu thập được rất lớn. Trong số đó, có 2.400 trang thông tin về tổ chức môi trường Hòa bình xanh. Ngày 9-1-2006, người phát ngôn Cục Hải quan và Bảo vệ biên giới Mỹ tuyên bố rằng, trong cuộc chiến "chống khủng bố" hải quan Mỹ có quyền mở và điều tra các thư cá nhân gửi đến nước Mỹ. Việc này đã gây ra các cuộc phản đối (AP, 9-1-2006). Ngày 17-1-2006, Liên minh các quyền dân sự Mỹ và Trung tâm các quyền hiến pháp có trụ sở ở New York đã đệ đơn lên tòa án cấp quận ở đông Michigan và tòa án liên bang Mỹ kiện Tổng thống Mỹ và những người đứng đầu các cơ quan an ninh vì đã bí mật theo dõi các công dân Mỹ.
Tình trạng cảnh sát lạm quyền cũng rất phổ biến ở Mỹ. Theo tin ngày 14-7-2005 của Thời báo Los Angeles, cảnh sát bang này đã bắn chết con gái 19 tháng tuổi của một người bị tình nghi khi đang truy bắt người này. Vụ việc đã làm bùng lên sự phẫn nộ của dư luận.
Ngày 9-10, năm cảnh sát bang New Orleanss đánh đập một giáo viên 64 tuổi (đã về hưu) trên đường phố khi tìm cách bắt ông làm ông bị nhiều vết thương (AP, 9-10-2005). Vụ này cũng thu hút sự chú ý của dư luận. Ngày 26-12, một cảnh sát New Orleanss bắn ít nhất 6 phát đạn vào một người da đen và giết chết anh. Các vụ cảnh sát lạm quyền hầu như không được xử lý công bằng. Theo tin ngày 31-3-2005 của Thời báo Los Angeles, chỉ có 8 trong số hơn 200 vụ kiện cảnh sát lạm quyền được xử lý, số còn lại hoặc bị hoãn vô thời hạn hoặc chỉ xử lý nội bộ.
Trong hệ thống tố tụng cũng thường xuyên xảy ra sự bất công và vi phạm nhân quyền. Năm 2005, các phương tiện thông tin đại chúng Mỹ phát giác một số vụ công dân bị xét xử sai. Sau 24 năm trong tù,
Robert Clark ở bang Georgia được thả sau khi xét nghiệm DNA chứng minh anh vô tội. Clác là người chịu án tù lâu nhất trong số 164 người được chứng minh vô tội sau khi xét nghiệm DNA (Thời báo New York, 8-12-2005). Ðêm 21-12-2005, chương trình trực tiếp của Larry King trên truyền hình CNN phỏng vấn bốn người từng bị kết tội và ngồi tù hơn 10 năm đến gần đây mới được chứng minh vô tội sau khi xét nghiệm DNA. Luật sư bào chữa tội phạm hình sự nổi tiếng Los Angeles Mark Geragos cho biết trong chương trình này rằng, ông thấy những nghiên cứu nói có tới 20% các bản án sai ở Mỹ. Báo cáo tháng 10-2005 của Trung tâm thông tin về hình phạt tử hình ở Mỹ nói, hệ thống hình phạt tử hình ở Mỹ là "lỗ hổng tồi tệ của luật pháp", bởi vì đã diễn ra "hành vi sai trái trong việc không thông tin chính xác cho bồi thẩm đoàn" (AFP, 18-10-2005).
Mỹ tự phong là "thiên đường tự do", nhưng tổng số tù nhân và tỷ lệ người bị tù đều đứng đầu thế giới. Theo số liệu của Bộ Tư pháp Mỹ công bố ngày 23-10-2005, tổng số tù nhân ở Mỹ tính đến cuối 2004 là 2.267.787 người, nghĩa là có 724 tù nhân trên 100 nghìn dân, tăng 18% so với 10 năm trước và cao hơn tỷ lệ này ở bất kỳ nước nào tới 25% (Bưu điện Washington, 24-10-2005). Theo thăm dò của Thời báo New York, số người bị kết án tù chung thân đã tăng gấp hai lần ở Mỹ trong mười năm qua (báo Mặt trời Baltimore, 21-10-2005). Từ 2003 đến 2004, số tù nhân tăng mỗi tuần 900 người. Trong nửa đầu năm 2004, số tù nhân mới tại 50 bang tăng 2,3% so cùng kỳ năm trước, lên tới 48.000 người.
Do các nhà tù chật cứng, tình trạng của tù nhân ngày càng tồi tệ. Ngày 31-12-2004, 24 nhà tù ở các bang đã quá tải 40% (http://www.ojp.usdoj.gov/bjs). Do chính phủ cắt giảm chi cho các nhà tù, một số nhà tù ở các bang giảm chi chăm sóc y tế cho tù nhân. Kết quả là một số lớn tù nhân nhiễm lao hoặc viêm gan. Tháng 4-2005, một tù nhân nam 44 tuổi chết trong một nhà tù ở New York vì không được chữa trị kịp thời. Trong những năm gần đây, chỉ riêng tại TP New York hàng trăm tù nhân bị thương ở đầu vì bị đối xử tồi tệ. Tại một xà-lim ở đảo Rikers, New York, một tù nhân bị cai tù đánh vào đầu làm mù một mắt; một tù nhân bị thủng màng nhĩ và một tù nhân khác bị gãy xương gò má vì bị cảnh sát đánh đập (Thời báo New York, 30-10-2005). Tại TP Phoenix, tù nhân bị giam trong lều và bị buộc phải lao động, chỉ ăn hai bữa mỗi ngày và không được hưởng bất cứ hoạt động giải trí nào (báo El Universal, Mexico, 26-8-2005). Tháng 8-2005, một sinh viên Qatar bị giam giữ hai năm mà không có cáo trạng mô tả điều kiện sống trong tù: không được bảo đảm những nhu yếu phẩm cơ bản, bị giam dài ngày trong một phòng rất chật với thời hạn dài nhất tới 60 ngày, tay bị còng và bị cùm ngay trong phòng, kể cả lúc tắm. Trong cơn bão Katrina, từ 29-8 đến 1-9-2005, các nhân viên quản giáo Sở Cảnh sát New Orleanss đã bỏ mặc 600 tù nhân trong một nhà tù, nhiều người bị nước ngập tới ngực thậm chí tới cổ mà không có thức ăn, nước uống, điện, dưỡng khí hoặc các điều kiện sinh hoạt trong suốt bốn ngày đêm.
Tình trạng xâm phạm tình dục cũng rất phổ biến trong các nhà tù. Theo một báo cáo của Bộ Tư pháp Mỹ công bố tháng 6-2005, có khoảng 8.210 vụ tố cáo về bạo lực tình dục, trong đó gần 42% số vụ liên quan hành vi sai trái về tình dục do nhân viên quản giáo gây ra với tù nhân. Theo một báo cáo của Tổ chức theo dõi nhân quyền, 21% số tù nhân ở bảy nhà tù ở vùng trung tây nước Mỹ bị các bạn tù cùng giới xâm phạm tình dục.
Về các quyền và tự do chính trị
Mỹ luôn tự đề cao mình là "hình mẫu dân chủ" và áp đặt mô thức dân chủ của mình đối với phần còn lại của thế giới. Trên thực tế, "dân chủ" kiểu Mỹ luôn là thứ dân chủ vì kẻ giàu, và là "cuộc chơi dành cho người giàu".
Các cuộc bầu cử dân chủ ở Mỹ phần lớn do đồng tiền quyết định. Trong cuộc bầu cử thị trưởng TP New York tháng 11-2005, tỷ phú Michael Bloomberg, thị trưởng thành phố, đã chi 77,89 triệu USD trong tài sản của ông nhằm tái đắc cử. Tính ra một phiếu bầu mua với giá hơn 100 USD. Hãng AP gọi đây là cuộc bầu lại thị trưởng đắt giá nhất trong lịch sử. Trong cuộc chạy đua ghế thống đốc bang New Jersey, hai triệu phú tranh đua đã chi tổng cộng 75 triệu USD, trong đó riêng Jon S. Corzine - người thắng cuộc, chi 40 triệu USD. Tính cả 60 triệu USD ông này chi để giành ghế Thượng nghị sĩ năm 2000, Corzine đã chi 100 triệu USD trong năm năm bầu cử. Theo một thăm dò, tại thủ đô Washington, một thượng nghị sĩ cần khoảng 20 triệu USD để giữ ghế ở Thượng viện. Trong một bài xã luận, báo Bưu điện Washington chỉ trích hệ thống chính trị Mỹ: "Một hệ thống chính trị biến một chức vị văn phòng được bầu chọn trở thành một món đồ mua bán thì đó không phải là một hệ thống lành mạnh".
Tiền tác động mạnh các quyết định của Quốc hội và Chính phủ Mỹ. Ai cũng biết ở Mỹ, các công ty và các nhóm lợi ích thuê những công ty quan hệ công chúng và tư vấn để vận động QH và Chính phủ, chi tiền để ảnh hưởng quyết định của các cơ quan này và giành những hợp đồng của chính phủ. Ngày 4-1-2006, các phương tiện thông tin đại chúng chủ yếu ở Mỹ đều đưa tin về siêu chuyên gia vận động hành lang Jack Abramoff thừa nhận phạm ba tội danh nghiêm trọng trong đó có âm mưu liên quan vụ tham nhũng của các viên chức nhà nước và đồng ý hợp tác với các công tố viên Mỹ điều tra các thành viên QH và trợ lý bị nghi ngờ tham nhũng. Ðây là vụ bê bối "quyền đổi tiền" lớn nhất trong chính trị Mỹ trong vài chục năm qua. Có tới 20 thành viên QH và trợ lý của họ dính líu trong vụ bê bối cấp cao này.
Nhưng vụ Abramoff chỉ là phần nổi của tảng băng. Theo báo Bưu điện Washington và tờ Người quan sát (Anh), vận động hành lang đã trở thành ngành công nghiệp tăng trưởng lớn với những khoản lợi nhuận khổng lồ ở Washington. Hiện nay, số chuyên gia vận động hành lang có đăng ký đã lên tới 34.750, tính ra cứ một quan chức liên bang được bầu có 60 chuyên gia vận động hành lang vây quanh. Các chuyên gia vận động hành lang sử dụng ngân quỹ hơn hai tỷ USD một năm.
Phố K ở hạ phần Washington, nơi nhiều công ty vận động hành lang đặt trụ sở, được mệnh danh là "con đường làm giàu" và "quyền lực thứ tư" sau Tổng thống, QH và Tòa án. Từ 1998 tới 2004, các chuyên gia vận động hành lang chi 13 tỷ USD để thực hiện mong muốn của khách hàng. Năm 2004, họ chi 2,1 tỷ USD để vận động chính phủ liên bang và QH, chi ba tỷ USD cho các cuộc bầu cử Tổng thống và các nghị sĩ QH Mỹ.
Báo Nước Mỹ ngày nay tiết lộ: Từ năm 2000, có 5.410 chuyến đi của các nghị sĩ QH được tài trợ và các nghị sĩ QH đã nhận 16 triệu USD trong các chuyến đi được tài trợ riêng. Ðó là "cánh cửa cuốn" cho các chuyên gia vận động hành lang trở thành các chính khách và các chính khách về hưu từ các cơ quan chính phủ tham gia hoạt động gây ảnh hưởng của khu vực tư nhân. Từ 1998 đến nay, có hơn 2.200 cựu viên chức Chính phủ Mỹ trở thành chuyên gia vận động hành lang; trong số họ có 273 cựu nhân viên Nhà trắng và 250 cựu nghị sĩ QH và trưởng các bộ của chính phủ.
Ngày 24-10-2005, theo kết quả thăm dò dư luận toàn quốc của báo Thời sự nước Mỹ và thế giới, 73% số người Mỹ cho rằng, người dân bình thường không có cách nào liên hệ với lãnh đạo; 64% số người Mỹ cảm thấy lãnh đạo của họ bị quyền lực tha hóa; 62% cho rằng, các lãnh đạo chỉ tìm kiếm cách tăng túi tiền của bản thân. Một cuộc thăm dò chung do Viện Gallup, báo Nước Mỹ ngày nay và CNN tiến hành cho thấy, tỷ lệ tín nhiệm hoạt động của QH, hiện do đảng Cộng hòa nắm đa số, giảm còn 29%, mức thấp nhất kể từ 1994; 49% số người Mỹ trưởng thành cho rằng, "phần lớn thành viên QH tham nhũng". Cựu Bộ trưởng Tư pháp Ram-xây Clác từng nói, sẽ là phản dân chủ khi coi Mỹ là một nền dân chủ.
Mỹ khoe khoang sự tự do báo chí của mình nhưng các vụ bê bối bị Chính phủ Mỹ ngăn chặn và điều khiển thông tin liên tục diễn ra. Thời báo New York ngày 13-3-2005 đưa tin, Mỹ đang ở "kỷ nguyên mới của các tin truyền hình được làm trọn gói từ trước". Chính phủ liên bang ép các đài truyền hình phải nhận phát các bản tin thời sự được làm trước. Ít nhất 20 cơ quan liên bang, trong đó có Bộ Quốc phòng và Cục Thống kê, đã tạo ra và cung cấp hàng trăm bản tin thời sự truyền hình trong bốn năm qua.
Quân đội Mỹ trả tiền cho các tờ báo và nhà báo Iraq cho cái gọi là chiến dịch tuyên truyền. Thời báo Los Angeles ngày 30-11-2005 đưa tin, quân Mỹ đã viết nhiều bài đánh bóng hình ảnh cuộc chiến của Mỹ ở Iraq, gửi tới một công ty ở Washington, tại đó chúng được dịch ra tiếng A-rập và được đăng trên các báo ở Baghdad. Tin cho biết, quân đội còn mua một tờ báo Iraq và kiểm soát một đài phát thanh "nhằm đưa các thông điệp có lợi cho Mỹ tới công chúng Iraq". Các tin khác nói các sĩ quan quân đội Mỹ lập ra cái gọi là Câu lạc bộ báo chí Baghdad, trả cho mỗi thành viên 200 USD mỗi tháng để sản xuất những tin tích cực về các chiến dịch quân sự của Mỹ. Một xã luận của báo Bưu điện Washington gọi các hoạt động này là "sự tuyên truyền được cấy ghép", đi ngược lại tự do báo chí.
Cộng đồng quốc tế đã lên án việc Chính phủ Mỹ cấm các tiếng nói khác bằng nhiều cách. Ngày 22-11-2005, tờ Tấm gương hàng ngày của Anh trích dẫn một bản ghi nhớ "tối mật" đề ngày 16-4-2004, từ Phố Downing, nói Chính phủ Mỹ muốn đánh bom trụ sở của Ðài truyền hình Al-Jazeera ở Doha, Qatar trong chiến tranh Iraq nhằm ngăn chặn thông tin xác thực về tình hình chiến sự và loại bỏ ảnh hưởng tiêu cực của các thông tin đó đối với phía Mỹ; sự tiết lộ này làm dấy lên các cuộc phản đối của các nhân viên Ðài Al-Jazeera tại hơn 30 nước và Liên đoàn nhà báo quốc tế. Ngày 27-11, báo Người quan sát (Anh) nói, các văn phòng của Ðài Al-Jazeera tại Baghdad và Kabul bị quân đội Mỹ đánh bom, các nhà báo của đài này bị quân đội Mỹ bắt giữ, đe dọa, tra tấn và quấy rối trong chiến tranh Iraq.
Trên thực tế, sự xâm phạm thô bạo của Mỹ đối với tự do báo chí liên tục xảy ra. Ngày 8-4-2003, nhà quay phim Jose Couse của Ðài truyền hình Tây Ban Nha Telecino bị lính Mỹ bắn chết. Sau cái chết của Cu-xô, Tòa án Tây Ban Nha gửi trát tới cảnh sát Tây Ban Nha và Tổ chức cảnh sát hình sự quốc tế yêu cầu bắt và dẫn độ ngay lập tức ba lính Mỹ bị tình nghi. Ngày 28-8-2005, quân Mỹ nổ súng vào một đội phóng viên Reuters; một nhân viên kỹ thuật âm thanh của Reuters bị bắn nhiều phát vào mặt và ngực và bị giết tại hiện trường. Hai phóng viên Iraq chạy tới hiện trường vụ này cũng bị bắt và bị buộc đứng phơi dưới nắng gắt.
Theo Ủy ban bảo vệ các nhà báo, Mỹ đang giam cầm bốn nhà báo Iraq trong các trung tâm giam giữ ở Iraq và một nhà báo của Ðài Al-Jazeera tại căn cứ hải quân Guantanamo của Mỹ. Không ai trong số họ bị cáo buộc phạm tội gì cụ thể. Tháng 7-2005, phóng viên Thời báo New York Judith Miller bị kết án tù vì từ chối tiết lộ nguồn thông tin của cô. Một phóng viên ảnh của báo Ngôi sao hàng ngày Toronto, Canada khi đưa tin về tình hình sau cơn bão Katrina bị cảnh sát New Orleanss xô ngã. Cảnh sát giữ hai máy ảnh của anh và gỡ bỏ hai thanh bộ nhớ của máy ảnh. Khi anh đòi cảnh sát trả lại các bức ảnh, cảnh sát chửi bới và đe dọa đánh anh. Một phóng viên của một tờ báo địa phương ở New Orleans cũng bị tiến công khi đang theo dõi một vụ nổ súng giữa cảnh sát và dân địa phương. Cảnh sát đã bắt và đập vỡ tất cả thiết bị làm việc của phóng viên này.
Về các quyền kinh tế, xã hội và văn hóa
Mỹ là nước giàu nhất thế giới, nhưng tỷ lệ người nghèo ở Mỹ cũng cao nhất trong số các nước phát triển. Các vấn đề như nghèo, đói và vô gia cư ở Mỹ rất nghiêm trọng, và các quyền kinh tế, xã hội và văn hóa của người lao động không được bảo đảm.
Reuters, ngày 25-4-2005, dẫn kết quả một nghiên cứu của Trường Kinh tế Luân Ðôn về tám nước phát triển năm 2005 cho thấy, Mỹ là nước có tình trạng bất bình đẳng xã hội tồi tệ nhất. Tỷ lệ người nghèo ở Mỹ là cao nhất trong các nước phát triển và cao hơn hai lần tỷ lệ ở phần lớn các nước công nghiệp khác (báo Tuần tin tức - Mỹ, 19-9-2005).
Trong những năm gần đây, tài sản của người giàu ở Mỹ tiếp tục tăng. Theo hai nghiên cứu mới của Tập đoàn Spectrem, một công ty nghiên cứu về người giàu có trụ sở ở Chicago, và Tập đoàn tư vấn Boston, các gia đình triệu phú ở Mỹ nắm hơn 11 nghìn tỷ USD tài sản năm 2004, tăng hơn 8% so với 2003 (Tạp chí Phố Wall, 25-5-2005). Trong khi đó, thu nhập của người lao động bình thường ở Mỹ giảm đáng kể, làm tăng số dân nghèo. Cục Thống kê Mỹ cho biết, tỷ lệ người nghèo chính thức của Mỹ tăng từ 12,5% năm 2003 lên 12,7% năm 2004, số người nghèo tăng thêm 1,1 triệu, từ 35,9 triệu lên 37 triệu người, tính ra cứ tám người Mỹ có một người nghèo. Tỷ lệ nghèo ở các thành phố như Detroit, Miami và Newark vượt 28%. Thời báo New York ngày 22-11-2005 đưa tin năm 2004 có 3,9 triệu gia đình có thành viên không đủ ăn.
Vô gia cư là một vấn đề nghiêm trọng. Báo Nước Mỹ ngày nay ngày 12-10-2005 công bố kết quả điều tra tiến hành tháng 6-2005 cho thấy, có 727.304 người vô gia cư trên toàn nước Mỹ, tính ra cứ 400 người Mỹ có một người không có nhà ở. Theo thăm dò của Hội nghị các thị trưởng Mỹ tại 24 thành phố trong đó có Chicago, Boston và Los Angeles, đơn xin tạm trú khẩn cấp năm 2005 tại các thành phố trên tăng trung bình 6% so với năm trước, 71% các thành phố có số đơn đăng ký tăng. Các đơn xin trợ cấp lương thực khẩn cấp tăng trung bình 12%, 76% các thành phố số đơn đăng ký tăng. Hơn 3.100 gia đình với gần 6.000 trẻ em đăng ký chỗ trú khẩn cấp ở thủ đô Washington mỗi năm, nhiều em ngủ trên hè phố hoặc các bến xe (Bưu điện Washington, 28-10-2005). Thời báo Los Angeles ngày 16-6-2005 đưa tin, hạt Los Angeles đã trở thành "thủ đô của những người vô gia cư Mỹ", với số người lang thang hoặc trú thân tạm bợ lên tới 90 nghìn người mỗi ngày, trong đó có 35 nghìn người thường xuyên sống cảnh màn trời chiếu đất.
Các quyền của người lao động Mỹ không được bảo đảm. Theo số liệu của Bộ Lao động Mỹ, tháng 11-2005, số người thất nghiệp ở Mỹ là 7,6 triệu, tỷ lệ thất nghiệp 5%. Gần 20% số người thất nghiệp đã không tìm được việc làm trong sáu tháng hoặc lâu hơn (Nước Mỹ ngày nay, 22-11-2005). Khoảng 3,6 triệu người không được hưởng bảo hiểm thất nghiệp (Thời báo New York, 1-2-2005).
Lương thấp, điều kiện làm việc kém và thiếu bảo hộ lao động cũng là những vấn đề. Báo Bưu điện Washington ngày 3-8-2005 đưa tin, công nhân các xí nghiệp đóng thịt hộp ở Mỹ phải lao động nặng nhọc trong điều kiện làm việc tồi tệ, thường bị đứt, cụt tay chân, bệnh về da, tổn thương vĩnh viễn về tay và vai, thậm chí tử vong do lực chuyển động cắt nặng lặp đi lặp lại.
China Press ở TP New York ngày 1-11-2005 đưa tin, nhân công ở hầu hết các nhà hàng ở New York đều thiếu dụng cụ bảo hộ lao động cơ bản. Khoảng 38% số người làm công bị bỏng, gần một nửa số người làm bị các vết thương do cắt, cứa. Ngày 31-10-2005, các công nhân xe buýt đường dài ở đông-nam Pennsylvania, bang Philadelphia đình công do bất đồng với chủ về bảo hiểm y tế. Tại TP New York, công đoàn công nhân xe buýt đường dài bắt đầu một cuộc bãi công toàn thành phố ngày 20-12-2005, sau khi không đạt được thỏa thuận với Cục quản lý vận tải thành phố về tiền công và lương hưu.
Chi phí y tế bình quân đầu người ở Mỹ cao hơn bất kỳ nước nào khác, nhưng vẫn diễn ra khủng hoảng về bảo hiểm y tế cho người lao động. Năm 2004, tổng chi phí y tế tăng 8,2% so với 2003, nhưng 45,8 triệu người (15,7% dân số Mỹ) không được bảo hiểm y tế, tăng 800 nghìn người so với năm trước. Riêng TP New York gần hai triệu dân không có bảo hiểm y tế, hai phần ba số họ phải tự chi trả khám chữa bệnh. Mỗi năm 18 nghìn người Mỹ chết không được chữa trị.
Một cuộc thăm dò của Quỹ gia đình Kaiser tháng 9-2005 cho thấy chỉ có 60% các chủ công ty Mỹ mua bảo hiểm y tế cho công nhân, năm năm trước tỷ lệ này là 69%. Năm 2005 chi tiêu trung bình cho bảo hiểm y tế mỗi gia đình lên tới 10.880 USD. Trong những năm tới chi phí y tế ngày càng tăng sẽ càng đẩy nhiều người ra khỏi diện được bảo hiểm y tế. Ngày 21-11-2005, Hạ viện Mỹ thông qua dự luật cắt giảm ngân sách 50 tỷ USD, gồm ngân sách cho y tế, cứu trợ lương thực cho người nghèo và trợ giúp các dự án cho trẻ em, nghĩa là điều kiện sống của người nghèo ở Mỹ sẽ ngày càng tồi tệ.
Về tình trạng phân biệt chủng tộc
Mỹ là một quốc gia đa sắc tộc của những người nhập cư, với các nhóm sắc tộc thiểu số chiếm hơn một phần tư dân số. Nhưng nạn phân biệt chủng tộc từ lâu là một căn bệnh mạn tính của xã hội Mỹ. Người Mỹ da đen và các nhóm sắc tộc thiểu số khác ở đáy xã hội và mức sống của họ thấp hơn rất nhiều so với người da trắng. Theo Báo cáo Tình trạng người Mỹ da đen năm 2005, mức thu nhập của các gia đình Mỹ gốc Phi chỉ bằng một phần mười so với các gia đình người da trắng, phúc lợi xã hội người Mỹ da đen được hưởng chỉ bằng ba phần tư của người da trắng.
Năm 2004, tỷ lệ nghèo trong người Mỹ gốc Phi là 24,7%, người gốc Tây Ban Nha là 21,9%, và người da trắng không có gốc Tây Ban Nha là 8,6%. Tại New Orleans, 100 nghìn người trong số 500 nghìn dân thành phố này sống ở mức nghèo, phần lớn trong số họ là người Mỹ da đen. Tỷ lệ sở hữu nhà ở của người da đen là 48,1% so với 75,4% của người da trắng. Báo Bưu điện Washington ngày 11-4-2005 đưa tin, năm 2004 khoảng 29% số người Mỹ gốc Phi mua nhà phải chịu những khoản nợ lãi cao, so với chỉ khoảng 10% số người Mỹ da trắng.
Cục Dự trữ Liên bang Mỹ tháng 9-2005 cho biết, theo số liệu thế chấp 2004, tỷ lệ trung bình chịu nợ mua nhà giá cao là 32,4% trong số người Mỹ gốc Phi, 20,3% trong số người da trắng gốc Tây Ban Nha và 8,7% trong số người da trắng không phải gốc Tây Ban Nha. Thời báo Los Angeles ngày 14-7-2005 trích Báo cáo Tình trạng người da đen ở Los Angeles cho biết, người Mỹ da đen thua kém các nhóm sắc tộc khác về thu nhập, nhà ở, chăm sóc y tế và giáo dục. Người da đen có mức thu nhập hộ gia đình trung bình thấp nhất, chỉ 31.905 USD, so với 53.978 USD của người da trắng. Chỉ chiếm 10% dân số nhưng người da đen chiếm hơn 30% tổng số người không có nhà ở.
Các nhóm sắc tộc thiểu số bị phân biệt đối xử về việc làm và nghề nghiệp. Theo Bộ Lao động Mỹ, tháng 11-2005, tỷ lệ người da đen thất nghiệp là 10,6% so với 4,3% ở người da trắng. Thu nhập của đàn ông da đen chỉ bằng 70% thu nhập của đồng nghiệp da trắng, của phụ nữ da đen bằng 83% của đồng nghiệp da trắng. Các nhóm sắc tộc thiểu số thường không được đào tạo những nghề nghiệp thu nhập cao.
Ủy ban cơ hội việc làm bình đẳng Mỹ trích một báo cáo nói, tỷ lệ phân biệt đối xử về việc làm đối với người châu Á là 31% và người Mỹ gốc Phi là 26%, với người Hồi giáo tăng gấp hai lần từ sau vụ khủng bố ngày 11-9-2001. Theo China Press, mặc dù người Mỹ gốc Phi, gốc Tây Ban Nha và gốc châu Á chiếm 57% lực lượng lao động ở TP Niu Oóc, chỉ chưa đầy 19% có vị trí quản lý cao, trong khi người da trắng nắm 76%, thậm chí 97% các vị trí như vậy trong một số bộ của chính phủ.
Tỷ lệ người da mầu không có bảo hiểm y tế cao hơn ở người da trắng. Tỷ lệ này là 19,7% với người da đen và 32,7% với người gốc Tây Ban Nha, tính ra cứ ba người gốc Tây Ban Nha ở Mỹ thì một người không có bảo hiểm y tế. Tuổi thọ của người da đen thấp hơn của người da trắng 6 năm. Tỷ lệ tử vong trẻ da đen dưới một tuổi gấp hai lần tỷ lệ này ở trẻ da trắng.
Theo Bưu điện Washington, cứ 200 nghìn người da đen có 76,3 người nhiễm HIV/AIDS, cao hơn tám lần so với tỷ lệ ở người da trắng. Người da đen chiếm hơn nửa trường hợp nhiễm HIV/AIDS mới ở Mỹ và phụ nữ da đen chiếm tới 72% số trường hợp nhiễm mới ở phụ nữ. Hơn 80 nghìn người Mỹ da đen chết mỗi năm do thiếu bảo hiểm y tế, tỷ lệ tử vong ở đàn ông trung niên da đen gấp hai lần ở đàn ông da trắng trung niên.
Tình trạng phân biệt chủng tộc trong thực thi luật pháp ở Mỹ cũng nghiêm trọng. William J. Bennett, cựu Bộ trưởng Giáo dục Mỹ, từng nói, cách duy nhất để giảm tỷ lệ phạm tội ở Mỹ là cho tất cả phụ nữ da đen phá thai. Tại Mỹ, tội phạm da đen có xu hướng nhận hình phạt nặng hơn tội phạm da trắng.
Theo Báo cáo Tình trạng người Mỹ da đen 2005 do Liên đoàn thành thị toàn quốc công bố, số người da đen bị bắt có thể bị tù cao hơn ba lần số người da trắng bị bắt có thể bị tù, số người da đen bị kết án tử hình cao hơn bốn lần so với người da trắng, và thời gian ở tù của một người da đen dài hơn của một người da trắng phạm cùng tội 6 tháng.
Theo một nghiên cứu tháng 12-2005 của Ðại học Tổng hợp Maryland, số người phạm tội giết một người da trắng có thể bị kết án tử hình nhiều hơn 2-3 lần số người giết một người không phải da trắng có thể bị kết án tử hình; nhưng số người da đen giết người da trắng có thể bị kết án tử hình nhiều hơn gần 2,5 lần số người da trắng giết người da trắng có thể bị kết án tử hình và 3,5 lần số người da đen giết người da đen có thể bị kết án tử hình. Người da đen chỉ chiếm 12,2% dân số Mỹ, nhưng 41% số tù nhân Mỹ bị tù hơn một năm là người da đen, và 8,4% số đàn ông da đen tuổi từ 25-29 đang ngồi tù.
Theo các báo cáo của Tổ chức Theo dõi nhân quyền và các tổ chức khác, từ sau các vụ khủng bố ngày 11-9-2001, ít nhất 70 người, trong đó có một người Hồi giáo, bị giữ làm "bằng chứng xác thực" theo một luật liên bang cho phép bắt và giam giữ ngắn hạn "bằng chứng xác thực". Một phần ba trong 70 người này bị tù ít nhất hai tháng, một số bị tù hơn 6 tháng và một người bị tù hơn một năm.
Theo báo Người quan sát Washington hằng tuần số 42, năm 2005 giáo sĩ Hồi giáo người Mỹ gốc Trung Quốc James Yee bị buộc tội làm gián điệp và nổi loạn và có thể bị tử hình. Vì không có chứng cứ buộc tội, các cáo buộc bị hủy bỏ lặng lẽ. Vụ này được các phương tiện thông tin đại chúng coi là một trong những sai lầm nghiêm trọng nhất về tố tụng trong lịch sử Mỹ.
Các vụ bạo lực nhằm vào các nhóm sắc tộc thiểu số ngày càng tăng ở Mỹ. Theo báo cáo của FBI công bố tháng 10-2005, trong số 9.528 nạn nhân của các vụ phạm tội do thù ghét nhau trong năm 2004, thì 53,8% là nạn nhân của kỳ thị chủng tộc, và 67,9% là người da đen, 60,6% số người phạm tội này là người da trắng. Tỷ lệ người da đen có thể trở thành nạn nhân của bạo lực do thù ghét nhau cao hơn 20 lần ở người da trắng. Tại Los Angeles, 56% số vụ phạm tội này nhằm vào người da đen.
Về các quyền của phụ nữ và trẻ em
Mỹ không có thành tích tốt trong việc bảo vệ các quyền của phụ nữ và trẻ em. Phụ nữ ở Mỹ không được hưởng các quyền và cơ hội bình đẳng về chính trị với nam giới. Phụ nữ chiếm 51,1% dân số Mỹ, nhưng chỉ nắm 81 ghế (15,1%) trong tổng 535 ghế tại QH Mỹ khóa 109, trong đó có 14 ghế (14%) trong 100 ghế Thượng nghị sĩ và 67 ghế (15,4%) trong 435 ghế Hạ nghị sĩ. Chỉ có 8 (16%) trong 50 thống đốc bang ở Mỹ là nữ. Chưa một phụ nữ da mầu nào làm thống đốc bang. Chỉ có 14 trong số thị trưởng 100 thành phố lớn nhất ở Mỹ là nữ. Tính đến tháng 11-2005, chỉ có 81 phụ nữ phục vụ trong cơ quan hành pháp bang, chiếm 25,7% tổng số 315 vị trí làm việc. Trong 7.382 người làm việc tại các cơ quan lập pháp bang có 1.668 là nữ, chiếm 22,6%. Một nghiên cứu của Liên minh Liên nghị viện cho biết, Mỹ đứng thứ 61 về số phụ nữ trong quốc hội trong hơn 180 nước theo chế độ bầu trực tiếp, năm 2003 Mỹ đứng thứ 58.
Tỷ lệ thất nghiệp ở phụ nữ Mỹ cao hơn ở nam giới và phụ nữ được trả lương thấp hơn nam giới làm cùng công việc. Cục Thống kê Mỹ cho biết, thu nhập trung bình của phụ nữ năm 2004 là 31.223 USD và của nam giới là 40.798 USD. Thu nhập của phụ nữ chỉ bằng 77% của nam giới. Thu nhập cả năm của chủ doanh nghiệp nữ chỉ bằng 49% so với đồng nghiệp nam giới. Năm 2004, Ủy ban cơ hội việc làm bình đẳng Mỹ nhận được 24.249 đơn tố cáo phân biệt đối xử giới, 4.512 đơn tố cáo về phân biệt đối xử với phụ nữ mang thai.
Các gia đình do một người phụ nữ làm chủ có tỷ lệ nghèo cao nhất. Năm 2004, tỷ lệ này là 28,4%. Ngày càng nhiều phụ nữ và trẻ em vô gia cư. Tại TP Pasadena, nam California, số phụ nữ và trẻ em vô gia cư lên tới 701 người năm 2005, tăng 42,7% so với 2003 và chiếm 57,6% số người vô gia cư ở thành phố này. Phụ nữ và trẻ em vô gia cư trở thành nhóm dân vô gia cư lớn nhất và lần đầu vượt số nam giới vô gia cư.
Phụ nữ Mỹ thường trở thành nạn nhân của bạo lực gia đình. Viện Nghiên cứu bạo lực gia đình Mỹ cho biết, mỗi năm ở Mỹ 5,3 triệu phụ nữ bị ngược đãi, 1.232 phụ nữ bị bạn tình giết. Có tin nói cứ ba phụ nữ Mỹ thì một người từng chịu bạo lực gia đình.
Phụ nữ Mỹ có nguy cơ cao bị xâm phạm tình dục. FBI, tháng 10-2005, cho biết, trong năm 2004, có 94.635 phụ nữ Mỹ bị cưỡng hiếp, tính ra cứ 100 nghìn phụ nữ thì 63,5 người bị cưỡng hiếp, tăng 0,8% so với năm 2003. Phụ nữ bị quấy rối tình dục tại nơi làm việc. Năm 2004, Ủy ban cơ hội việc làm bình đẳng Mỹ nhận được 13.136 đơn tố cáo quấy rối tình dục, 84,9% do phụ nữ gửi.
Theo một điều tra của Lầu Năm góc công bố ngày 23-12-2005, có tới 6% số phụ nữ trong các học viện lục quân, hải quân và không quân nói họ từng bị xâm phạm tình dục trong năm học 2004-2005, hơn một nửa nói họ bị quấy rối tình dục. Trong các đơn vị quân dự bị và bảo vệ quốc gia, 60% nữ và 27% nam bị xâm phạm hoặc quấy rối tình dục trong khi làm nhiệm vụ. 11% số phụ nữ bị hiếp.
Trong các nhà tù Mỹ, số tù nhân nữ bị đối xử tồi tệ ngày càng tăng. Cục Thống kê Tư pháp Mỹ ngày 24-4-2005 cho biết, tính đến 30-6-2004, số tù nhân nữ là 103.310 người, tăng 2,9% so với năm trước. Năm 2004, tù nhân nữ trong các nhà tù liên bang và bang chiếm 7%, tăng 4% so với 2003, gần gấp hai lần tỷ lệ tăng tù nhân nam. Gần 50% số tù nhân nữ nói họ bị xâm phạm tình dục. Năm 2004 có 8.210 đơn tố cáo về bạo lực tình dục trong các trại quản giáo ở Mỹ, và nhân viên quản giáo gây ra gần 2.100 vụ bạo lực tình dục, đa số nạn nhân là nữ.
Ðiều kiện sống của trẻ em Mỹ đáng lo ngại. Về chỉ số trẻ em nghèo, Mỹ đứng áp chót trong 22 nước phát triển. Cục Thống kê Mỹ ngày 30-8-2005 cho biết, trẻ em chiếm gần một phần ba trong số 37 triệu người nghèo ở Mỹ. 1,35 triệu trẻ em từng vô gia cư.
Trong số người dưới 18 tuổi, số người nghèo chiếm 30% ở thủ đô Washington, 27% ở Mississippi và Louisiana, 26% ở New Mexico, 24% ở Tây Virginia. Tại New Orleans, 40% số trẻ em thành thị sống ở mức nghèo.
Sức khỏe của trẻ em Mỹ ngày càng giảm, tỷ lệ tử vong trẻ sơ sinh và trẻ vị thành niên đang tăng. Trên toàn quốc, 29% số trẻ em không có bảo hiểm y tế trong năm qua, nhiều em không được kiểm tra sức khỏe hoặc tiêm chủng. China Press có trụ sở ở TP New York, ngày 5-5-2005, đưa tin, trong 20 năm qua các nhà nghiên cứu do Chính phủ Mỹ tài trợ đã thử nghiệm thuốc chống HIV/AIDS trên hàng trăm trẻ em sống trong các nhà phúc lợi mà không có tổ chức độc lập nào bảo vệ hoặc giám sát cơ bản. Việc làm này gây tác hại lớn đối với sức khỏe của trẻ em, một số em chết trong quá trình điều trị.
Một phần ba số trẻ em Mỹ sinh ra ngoài giá thú và một nửa số trẻ em sống trong các gia đình chỉ có bố hoặc mẹ. Hiện tại, bốn triệu trẻ em Mỹ sống với bố mẹ thất nghiệp, chịu bạo lực gia đình, trầm uất, nghiện ma túy và rượu.
Trẻ vị thành niên Mỹ thường là nạn nhân của tội phạm bạo lực. Ngày càng nhiều học sinh tới trường mang theo dao hoặc vũ khí khác. Năm 2005, số học sinh bị phát hiện mang dao hoặc vũ khí ở các trường học tại Maryland là 2.845, tăng 63% sau 5 năm. 2.278 trường hợp thu giữ vũ khí trong các trường học ở Virginia trong các năm 2003-2004. Tại thủ đô Washington trong các năm 2004-2005 xảy ra 148 vụ dùng vũ khí.
Báo Bưu điện Washington tháng 8-2005 đăng một thăm dò 325 học sinh gốc la-tinh lớp 7 và lớp 8 từ hạt Montgomery cho biết, 12% số học sinh 11-13 tuổi mang dao hoặc gậy (1% mang súng); 38% đã tham gia đánh nhau; 27% ở nhà không đến trường vì cảm thấy không an toàn; 16% bị người có vũ khí đe dọa hoặc làm bị thương; 20% tham gia hoạt động băng nhóm; 12% nói là thành viên của một băng nhóm.
Các vụ bạo lực xảy ra thường xuyên trong trường học đe dọa an toàn của 26,4 triệu học sinh Mỹ tuổi 12-16. Mỗi ngày ở Mỹ có 12 trẻ vị thành niên chết do các vụ phạm tội liên quan súng. Thời báo Los Angeles, 4-3-2005 đưa tin, hơn 70% số học sinh lớp 6 ở Los Angeles trải qua hoặc chứng kiến các vụ bạo lực, và tỷ lệ này lên tới 90% ở một số khu vực.
Sự bảo vệ tư pháp của Mỹ đối với các quyền của trẻ em kém hơn nhiều so với quốc tế. Bộ Tư pháp Mỹ cho biết, số trẻ vị thành niên bị tù ở Mỹ lên tới 102 nghìn, tính đến cuối 2004. Mỹ là một trong số ít nước, nơi trẻ vị thành niên phạm tội bị kết án tù chung thân mà không có khả năng được tạm tha. Theo Tổ chức Theo dõi nhân quyền, 93% số trẻ phạm tội phải chịu án tù chung thân với tội giết người, 26% bị kết án "giết người nghiêm trọng".