So với các loại hình văn học dân gian khác, sử thi có đặc điểm cơ bản về lưu truyền là tính diễn xướng (theo nghĩa thông thường ở Việt Nam). Sử thi Hy Lạp được các nghệ nhân a-è-đơ và rap-xô-đơ hát, sử thi Mông Cổ được các nghệ nhân hát có đệm đàn lia-rơ. Ở Ấn Độ vào dịp hội Thập Thắng, ôn lại 10 ngày Hoàng tử Ra-ma chiến thắng lũ quỷ, giành lại nàng Xi-ta, nhân dân tổ chức các màn biểu diễn trên sân khấu di động do voi kéo đi khắp nơi trong các vùng của đất nước.
Riêng ở Việt Nam, một đất nước có một kho tàng sử thi rất phong phú (chương trình sưu tầm sử thi Tây Nguyên cho biết có thể có hàng trăm tác phẩm). Thế nhưng từ trước chúng ta chưa biết đến các hình thức diễn xướng của loại hình này ngoài hát-kể.
Gần đây, chúng tôi phát hiện và sưu tầm được sử thi Khủn Chưởng của đồng bào Thái ở miền Tây nghệ An. Bản sử thi này có 5 hình thức lưu truyền: sách viết bằng chữ Thái Cổ Quỳ Châu (tương đối khác so với chữ Thái ở các vùng), kể, hát (hắp), múa (txạ) và khóc (hay). Chúng tôi xin giới thiệu tóm tắt 3 trong số 5 hình thức vừa kể.
Hát, tiếng Thái địa phương là hắp, khi hát những tác phẩm bằng thơ dài đồng bào giọi là hắp lái. (Lái là tác phẩm dài bằng thơ như Lai lống mương, Lái Xư Thốn, Lái Nang Căm-Tạo In,...). Xét một mặt nào đó, sử thi Khủn Chưởng cũng là một tác phẩm thơ ca dài nên cũng được gọi là lái-Lái Khủn Chưởng và làn điệu mà đồng bào dùng để diễn xướng Khủn Chưởng là một loại dân ca Thái, như đối với các lái khác.
Sau đây là một số đoạn hắp lái Khủn Chưởng mà nhiều người ưa thích và quen thuộc:
- Mẹ Ăm Pím dặn con về nhà chồng.
Mẹ dặn con những lời vội vã
Về chăm sông cho sông nhiều cá
Chăm đất mường, sai cành xanh lá
Cho bản mường sáng sủa hơn xưa
Để bàn dân tứ phương kéo đến
Như bầy chim đậu cành cây lớn
Con đừng thắp lửa lên giường thờ kẻo cháy
Đừng mặc váy đơn, người trách ma chê
Chăm bếp lửa đừng để lan ra
Đi vào phải nhón chân nhẹ bước
Đi ra phải nhón bước nhẹ nhàng
- Ngọm Muồn khóc chồng-Khủn Chưởng.
Vĩnh biệt chiếc giường tình, màn thêu buông kín
Từng ôm ấp Chưởng trong giấc nhủ êm đềm
Vĩnh biệt ngôi nhà lớn nghìn cột trăm gian
Một gian khảm bạc khảm vàng
Là gian dành để cho chàng với ta
Lung linh vách nở muôn hoa
Mái nhà một dải rồng sa giữa trời
Chiếc chiêng lớn ngân vang mường bản
Vĩnh biệt nhé!
Giây trầu nhuộm thắm đôi môi
Lá vàng rụng xuống, đâm chồi lá xanh
Cây cau lớn nở hoa trước ngõ
Gắn với chàng từ thuở còn thơ
...
Chào cối lớn ngày ngày giã gạo
"Khắc luống" lên, vui bản vui mường
Chào những chàng trai trung thành với chủ
Chào khoảng ruộng, xin chào tất cả
Chào con sông, xin chào đàn cá
Chào cả hoa "chà mằng" thắm nở
Ta thường hái hoa cài mái tóc làm duyên
Giờ hoa "chà mằng" ven sông không còn nữa
Ngọm Muồn chào vĩnh biệt
Cá dưới sông quẫy đuôi buồn bã
Chim trên rừng vội vã bay đi
Chú voi già nước mắt đẫm mi
Trên đây là trích đoạn về lời vĩnh biệt trần gian của Ngọm Muồn để sau đó quyên sinh chết theo chồng.
Ngoài hình thức hát, sử thi Khùn Chưởng còn được diễn xướng bằng khóc và múa.
Sau khi chiến thắng oanh liệt nhiều mường ở Hạ Xái, anh hùng Chưởng lên trời đánh với Phạ Huồn. Chàng bị thua và lìa đời. Khắp trần gian đau đớn, khóc lóc, tiễn đưa. Màn khóc được gọi là hày Chưởng (khóc Chưởng) được đưa vào nghi lễ Ky xà, do ông mo chủ trì. Nghi lễ này có nhiều màn. Màn khóc Chưởng gồm bốn nhân vật chính:
- Ôm mo,
- Chưởng,
- Hai cô gái hầu trầu.
Ông mo chủ mặc y phục nghi lễ, đầu đội khăn đỏ. Mở đầu ông đọc lời mời Chưởng về. Hồn Chưởng nhập vào ông. Ông ngã xuống giữa hai cô gái hầu trầu, hai cô đỡ lấy Chưởng. Khi đó một ông mo khác, ăn mặc chỉnh tề, đầu đội khăn thêu, tay chống gươm, đứng hát bài khóc Chưởng, đoạn kể lại cuộc chiến tranh với Phạ Huồn, từ mở đầu cho đến cái chết của Chưởng.
...
Chưởng Hùng kéo quân ra chật ních cánh đồng
Nhìn ngà voi, gươm đao lấp lánh
Cả cánh đồng như một bãi sao sa
Chưởng lùa voi qua sông đến nơi giáp trận
Ngựa bên then rần rật vỗ cánh
Bay lên che kín cả bầu trời
Ngựa tung lên như gió thổi ào ào
Những mũi lao như trận mưa rào
Hai ông tướng kêu gào chém giết
...
Then Lốm (thần gió) làm bão táp cuồng phong
Nón vàng Chưởng một bên lệch hẳn
Khun Bẳng hóa thân thành con nhặng chui vào
Đâm thủng ruột, máu trào ra ướt áo
Nhì cảm thấy như tự trời cao rơi xuống
Trong phút giây chợt tỉnh, chợt mê
Nhì kiệt sức từ lưng voi ngã sụp
Cho "náng mốn" lên hàn gắn vết thương
Khi cởi áo thấy vết thương to quá
Nhì thở ra hơi thở cuối đời
Đến đây ông mo hát:
Dậy đi Chưởng ơi!
Tắm gội đi, máu đào tanh tưởi.
Nghe đến đó Chưởng sống lại vụt đứng dậy, mỗi tay cầm một thanh gươm, miệng hô; "Chém! Chém!". Mọi người cùng vui mừng, cồng chiêng nổi lên. Tất cả các ông mo và toàn thể cô gái cùng đứng dậy múa điệu xải txạ hoặc xải Chưởng quanh vò rượu 3 vòng. Cuối cùng là điệu cồng thu quân nổi lên kết thúc Hày Chưởng.
Tóm lại, so với các sử thi khác của các dân tộc nước ta, Khủn Chưởng có một số hình thức diễn xướng đặc biệt nhất là sử thi được đưa vào tín ngưỡng, nghi lễ.
Các hình thức này có tác dụng hai chiều. Chiều thứ nhất là do ảnh hưởng sức sống mạnh mẽ của Khủn Chưởng mà bản sử thi này thâm nhập vào các sinh hoạt văn hóa khác như tín ngưỡng, ca múa. Ngược lại các sinh hoạt trên tăng thêm việc bảo toàn và chuyển tải Khủn Chưởng khiến cho nó càng có sức sống mạnh mẽ và lâu bền hơn.
Không những đối với sử thi trong nước, mà đối với thế giới đây cũng là một hiện tượng ít thấy.