Một học giả "bất yếm, bất quyện"

Quê ở Thanh Văn, Thanh Chương, Nghệ An, ngay từ thời trẻ, trong những năm đầu kháng chiến chống thực dân Pháp, ông đã gắn bó với nghề dạy học.

Năm 1960, bằng con đường tự học, tự nghiên cứu là chính, ông trở thành người Việt Nam đầu tiên bảo vệ thành công luận an tiến sĩ ngôn ngữ học tại Lê-nin-grát, Liên Xô (trước đây).

Năm 2000, ông được tặng Giải thưởng Hồ Chí Minh cho các công trình nghiên cứu xuất sắc về ngữ pháp, ngữ âm tiếng Việt, cũng như về nguồn gốc và quá trình hình thành cách đọc Hán - Việt, về chữ Nôm...

Vào dịp ấy, Trường đại học Khoa học Xã hội và Nhân văn (thuộc Ðại học Quốc gia Hà Nội) tặng ông một chiếc đĩa sứ treo tường, cỡ lớn, tráng men trắng, trên mặt đĩa có in bốn chữ Hán viết tay bằng men lam: "Bất Yếm, bất quyện". Ðó là bốn chữ rút từ câu danh ngôn của Khổng Tử tự nói về mình: "Học Nhi bất yếm, hối nhân bất quyện" (nghĩa là: Học không biết chán, dạy người không biết mệt).

Thật quá đúng khi "vận" câu danh ngôn ấy vào GS Nguyễn Tài Cẩn!

Một tấm gương "Bất yếm, bất quyện"

Qua bao năm rồi, nhưng tôi vẫn còn nhớ rõ lần tôi gặp lại anh Cẩn vào mùa thu năm 1948, khi anh 22 tuổi, tại nhà ông nội tôi, cụ phó bảng Nguyễn Văn Chấn, ở Nam Ðàn, Nghệ An. Lúc bấy giờ, tôi mới là một cậu học trò bậc trung học cơ sở, còn anh Cẩn thì đã đỗ "tú tài kháng chiến" ban văn - triết. Trên đường từ Trường Huỳnh Thúc Kháng bên sông La - chợ Thượng cuốc bộ về quê bên sông Cả - Thanh Chương, anh ghé qua vùng chợ Tro - Nam Ðàn thăm mấy anh chị em chúng tôi, những người mà anh đã quen biết từ dạo còn ở Huế trước năm 1945. Anh say sưa bộc bạch:

- Mình về nhà ít lâu, rồi ra Diễn Châu xin thụ giáo cụ Cao Xuân Huy. Sau "thập niên đăng hỏa", chắc cũng chưa nhặt hết "bồ chữ" của cụ Huy!

Nghe anh nói vậy, tôi ngây thơ tự hỏi: Không biết cụ ấy lắm chữ đến mức nào mà một vị tú tài giỏi giang như anh Cẩn còn phải theo học... những mười năm nữa! Dù chưa hiểu nhiều về anh, tôi vẫn cảm thấy anh quá ư ham hiểu biết...

Trong kháng chiến, sống ở vùng tự do Nghệ Tĩnh, anh không có điều kiện theo học đại học chính quy, mà phải vừa đi dạy phổ thông, vừa học thêm. Do vậy, đến năm 1954, anh vẫn chẳng có tấm bằng cử nhân hợp thức, mặc dù, xét về thực lực, thì anh có thừa từ lâu!

Mấy năm sau, theo lời giới thiệu của GS Ðặng Thai Mai, anh được cử sang Khoa Ðông phương học, Ðại học Lê-nin-grát, dạy tiếng Việt. "Chớp thời cơ", vừa dạy Việt ngữ cho sinh viên Nga, anh vừa tự mình viết xong và bảo vệ thành công luận án tiến sĩ về ngữ pháp tiếng Việt, được coi là "uyên bác", năm 1960, khi anh 34 tuổi. Chị Nô-na Xtan-ki-ê-vích, một học trò người Nga thông minh và xinh xắn, về sau, trở thành vợ anh và là một Giáo sư Việt ngữ học có tiếng.

Trở về nước, suốt 30 năm, TS Nguyễn Tài Cẩn giảng dạy và nghiên cứu tại Trường đại học Tổng hợp Hà Nội, có tới mấy nghìn môn sinh.

"Chao ôi, thầy kỹ tính quá!"

Hưu rồi, GS Cẩn vẫn hăng say nghiên cứu như khi còn trẻ.

Chiều hôm ấy, trời lâm thâm mưa. Ông Trần Chí Dõi, Phó chủ nhiệm Khoa Ngôn ngữ học, Trường đại học Khoa học Xã hội và Nhân văn, đưa chị Barbara Niedeer đến nhà riêng GS Cẩn ở một ngõ nhỏ bên đường Hoàng Quốc Việt. Dép bê bết bùn, vừa bước vào nhà, Barbara đã vội vã nói:

- Em sắp trở lại Paris! Em đã dịch xong cuốn sách của thầy ra tiếng Pháp. Mong thầy cho phép em đưa in bản dịch.

- Cuốn nào thế nhỉ? - GS Cẩn hỏi lại.

- Cuốn Nguồn gốc và quá trình hình thành cách đọc Hán - Việt, thầy ạ! Trước kia, em chẳng chú ý mấy đến cuốn sách ấy. Nhưng thầy Haudricourt (A.G.Haudricourt), một nhà Ðông phương học người Pháp rất nổi tiếng "bắt" em đọc! Ðọc xong, em mới cảm thấy hay. Và em quyết định phải dịch. Em nghĩ cuốn sách của thầy sẽ giúp ích nhiều cho các nhà Ðông phương học trên thế giới nếu họ có trong tay bản dịch tiếng Pháp.

Barbara viết luận án tiến sĩ về tiếng Mông - Dao ở Việt Nam. Chị từng sống nửa năm trên một bản người Mông cao chót vót. Là người Pháp gốc Thụy Sĩ, chị thông thạo các thứ tiếng Pháp, Anh, Ðức, Tây Ban Nha, biết cả tiếng Trung Quốc, Việt, Mông, Dao. Chị làm việc tại Trung tâm Quốc gia Nghiên cứu khoa học (CNRS) của Pháp, là học trò yêu của GS A.G.Haudricourt.

GS Cẩn thường mong các nhà nghiên cứu trẻ nước ta có được kiến văn sâu rộng như TS Barbara Niedeer.

- Tôi rất cảm ơn cô! Nhưng mong cô thông cảm cho: Gần đây, tôi nghe nói bên Mỹ vừa xuất bản cuốn A Handbook of Old Chinese Phonology (Sách chỉ dẫn về ngữ âm tiếng Hán cổ) của W.H.Ba-xtơ (W.H.Baxter) dày tới 900 trang. Tất nhiên, đó là một cuốn sách viết về ngữ âm tiếng Hán cổ, nhưng rất có thể có liên quan phần nào đến cách đọc Hán - Việt. Tôi cần tham khảo cuốn sách đó để, nếu cần, thì chỉnh lý đôi chút cuốn sách của tôi. Cô chịu khó chờ một thời gian nữa nhé!

- Chao ôi, thầy kỹ tính quá! - Barbara thất vọng thốt lên...

... Tháng 7-2001, tôi gặp lại GS Nguyễn Tài Cẩn tại nhà ông. Thấy tôi đến chơi, ông đưa cho xem bản in thử cuốn Nguồn gốc và quá trình hình thành cách đọc Hán - Việt sắp tái bản. Phải nói rằng cách xử lý trên máy tính cuốn sách này thật... quá ư phiền toái! Trong một đoạn văn thường có cả chữ Quốc ngữ, chữ Hán (phồn thể), và ký hiệu phiên âm quốc tế. Rồi, để tiện tra cứu, phải giữ nguyên dạng các tên riêng chữ Pháp, chữ Anh, chữ Ðức, chữ Nga, v.v. Khó có ai dám đảm nhận việc sửa bản in thử, trừ tác giả.

- Chắc bây giờ thì anh vui lòng để chị Barbara Niedeer đưa in bản dịch tiếng Pháp cuốn sách này rồi chứ?

- Mình đã nhờ một ông bạn ở Mỹ mua giúp cuốn sách của Ba-xtơ và đã đọc rất kỹ. Rồi đọc thêm cả cuốn Phục nguyên hệ thống ngữ âm tiếng Hán của nhà bác học Nga S.A.Starostin. Không có điều gì ngược với những ý kiến của mình. Giờ thì mình hết băn khoăn...

- Anh đã trả lời chị Barbara chưa?

- Mình vừa gửi thư điện tử cho cô ấy.

Góp sức phục nguyên văn bản Truyện Kiều

Ðầu năm Bính Tuất - 2006, đến nhà riêng mừng thọ GS Cẩn 80 tuổi, tôi được ông tặng một công trình mới: Tư liệu Truyện Kiều : Từ bản Duy Minh Thị đến bản Kiều Oánh Mậu. Cuốn sách dày 645 trang khổ nhỡ, vừa được Nhà xuất bản Văn học phối hợp với Trung tâm Nghiên cứu Quốc học ấn hành.Trước đó không lâu, về thăm "văn hiến địa" Tiên Ðiền, buổi tối, ngồi xem diễn "chèo Kiều" (một loại chèo "đặc sản" của quê hương Nguyễn Du), tôi nghe nhiều câu hát chèo thật ý nhị:

Bước xuống sông Lam tìm con cá lội,
Trèo lên Hồng Lĩnh hái một quả sim.
Có thương, anh mới đến đây tìm
Bây giờ gặp mặt như Kim gặp Kiều...

Hoặc là:

Ra ngõ vừa gặp người xinh
Khác nào Kim Trọng tiết Thanh minh gặp Kiều...

Dân Tiên Ðiền coi nàng Kiều, chàng Kim như những người thân nơi đầu làng cuối xóm.

Truyện Kiều đi vào lòng nhân dân ta từ bắc chí nam qua nhiều hình thức thật độc đáo Việt Nam: vịnh Kiều, tập Kiều, bói Kiều, lẩy Kiều, chèo Kiều...

Ấy thế nhưng, tiếc thay, cho đến nay, ta vẫn thiếu một văn bản Truyện Kiều có thể coi là gần nguyên tắc nhất!

Trong công trình nói trên, Nguyễn Tài Cẩn khảo sát chi li chín bản Kiều ở thế kỷ 19, gồm bảy bản chữ Nôm: Duy Minh Thị (bản 1872 và bản 1879), Liễu Văn Ðường (bản 1871), Quan Văn Ðường (1879), Thịnh Mỹ Ðường (1879), Lâm Nọa Phu (1870), Kiều Oánh Mậu (biên tập cuối thế kỷ 19, xuất bản năm 1902); một bản nửa Nôm nửa Quốc ngữ của Abel des Michels, 1884 và một bản Quốc ngữ của Trương Vĩnh Ký (1875).

Khảo sát chín bản Kiều tức là phải đọc kỹ lưỡng khoảng 29 nghìn câu thơ, với khoảng 205 nghìn chữ, hầu hết là chữ Nôm viết tay hoặc in mộc bản hơn trăm năm trước, nay mờ, khó đọc, lại thêm có nhiều tự dạng cổ khó "giải mã"... Công phu bỏ ra thật không sao kể xiết!

Trong hai năm 2007 - 2008, GS Cẩn vẫn tiếp tục gửi tặng tôi - một người "bạn vong niên" may mắn được ông coi là "ít nhiều tri kỷ" - những bài báo khoa học ông mới in xong về các văn bản Truyện Kiều bằng chữ Nôm cổ. Ông phát hiện không ít vết tích kỵ húy thời Lê - Trịnh, cho phép suy đoán Nguyễn Du đã sáng tác Truyện Kiều vào thời Tây Sơn, trong "mười năm gió bụi", chứ không phải sau khi đi sứ Trung Quốc trở về, dưới triều Nguyễn, như nhiều nhà Kiều học trước kia vẫn tưởng!

Ðọc các công trình ông viết khi đã ở tuổi 80, tôi không khỏi thán phục tinh thần "bất yếm, bất quyện" của "ông đồ Nghệ thời hiện đại" Nguyễn Tài Cẩn.

Có thể bạn quan tâm