Ða dạng hóa thị trường
Qua thực tế tìm hiểu tại Ðà Nẵng, chúng tôi nhận thấy, các DN đang tích cực chủ động trong sản xuất, kinh doanh để không quá lệ thuộc vào một thị trường cung cấp thiết bị, máy móc nguyên, vật liệu cho sản xuất, kinh doanh.
Tổng Giám đốc Tổng công ty cổ phần cao-su Ðà Nẵng Nguyễn Thanh Bình cho biết: "Tổng công ty vừa đầu tư hơn 2.100 tỷ đồng cho dây chuyền thiết bị hiện đại sản xuất lốp ô-tô ra-đi-an bố hoàn toàn bằng thép, công suất 600 nghìn lốp/năm. Trong đó, một số thiết bị, máy móc và một phần nguyên, vật liệu để sản xuất lốp được nhập từ Trung Quốc, chiếm khoảng 15%. Tuy nhiên, Tổng công ty đã chủ động có phương án đặt mua hàng ở một số nước khác nếu xảy ra tình huống phát sinh bất thường, để bảo đảm sản xuất, kinh doanh ổn định". Còn Tổng Giám đốc Tổng công ty cổ phần dệt may Hòa Thọ Nguyễn Ðức Trị bộc bạch: "Ðơn vị chúng tôi cũng mua nguyên liệu từ Trung Quốc. Tuy nhiên, về lâu dài, tổng công ty đã làm việc với các khách hàng truyền thống để chuyển đổi dần, chuyển qua mua nguyên liệu trong nước hoặc các nước khác để mở rộng mẫu mã, thị trường, không phụ thuộc vào bất kỳ thị trường nào".
Thị trường Trung Quốc vốn được xem là thị trường xuất khẩu dễ tính, không yêu cầu cao về chất lượng hàng hóa cho nên được phần lớn các DN Việt Nam ưa chuộng. Theo Hiệp hội Lương thực Việt Nam (VFA), năm 2013, Việt Nam đã xuất khẩu sang thị trường Trung Quốc 6,6 triệu tấn gạo, trong đó xuất khẩu tiểu ngạch khoảng 1,4 triệu tấn. Chủ tịch Hội Lương thực, Thực phẩm TP Hồ Chí Minh Lý Kim Chi nhận định: Ðể dần thoát khỏi tình trạng phụ thuộc vào một thị trường, các DN đang cơ cấu, phân bổ lại thị trường theo nguyên tắc "không bỏ trứng vào cùng một rổ", đồng thời thiết lập những vùng nguyên liệu ổn định, kiểm soát chất lượng từ nuôi trồng đến chế biến và tiêu thụ để tiếp cận các thị trường khác. Khi đó, nếu xảy ra rủi ro ở thị trường nào, DN vẫn còn thị trường khác để bù đắp. Bên cạnh đó, DN Việt Nam cần lên kế hoạch sản xuất kinh doanh phù hợp, nâng cao năng lực cạnh tranh, cần tính đến các biện pháp dự phòng, chủ động tìm các nguồn nguyên liệu mới để thay thế các nguồn nhập khẩu từ một thị trường; có chiến lược tiếp cận bài bản như tổ chức lại hạ tầng vận chuyển, khai thác các thị trường mới nổi như Hàn Quốc, Nhật Bản, Trung Ðông, châu Phi,... Các DN phải nghiên cứu kỹ lưỡng thị trường và xúc tiến thương mại bài bản, xây dựng chuỗi liên kết từ sản xuất đến chế biến.
Với nỗ lực tìm các đối tác mới để đa dạng hóa thị trường xuất khẩu hàng nông sản, ngày 9-6 vừa qua, Tổng công ty công nghiệp thực phẩm Ðồng Nai (Dofico) chính thức khai trương văn phòng đại diện tại TP Ðu-bai, Các tiểu Vương quốc Ả Rập thống nhất (UAE). Ðây là bước đi tiếp theo khi Dofico đã xuất khẩu chủ yếu các mặt hàng công nghiệp sang thị trường UAE trong hai năm qua với kim ngạch xuất khẩu 20 triệu USD. Ðồng thời, cũng là bàn đạp để "mở cửa" đưa hàng hóa của Ðồng Nai xuất khẩu sang Trung Ðông, châu Phi. Phó Tổng Giám đốc Dofico Nguyễn Hữu Hiểu cho biết: "Tuy bước đầu còn khó khăn, song hai bên đã ký được các thỏa thuận ghi nhớ để đưa hàng nông sản sang thị trường UAE đầy tiềm năng. Dofico và một đối tác đang xúc tiến thành lập liên doanh để hợp tác chặt chẽ với phương châm hai bên cùng có lợi. Ðể cụ thể hóa, hai bên đã thỏa thuận sẽ góp vốn khoảng 10 triệu USD giai đoạn 1, tăng dần theo từng năm". Hiện kim ngạch xuất khẩu của Ðồng Nai sang Ðu-bai mới đạt hơn 43 triệu USD vào năm 2013, song thị trường này đang mở ra khá nhiều cơ hội cho các DN trong tỉnh khi thông qua Dofico, các DN Ðu-bai đến tìm hiểu thị trường, nhất là nhóm hàng rau, củ, quả. Và đây đang là hướng đi mở rộng thị trường của các DN Ðồng Nai, không để phụ thuộc vào bất cứ thị trường nào.
Thị trường rộng mở
Việt Nam đang tích cực đàm phán và nỗ lực đi tới ký kết các Hiệp định Thương mại tự do (FTA) với các đối tác như EU, Hàn Quốc, Liên minh Thuế quan Nga - Bê-la-rút - Ca-dắc-xtan, Hiệp định Ðối tác kinh tế xuyên Thái Bình Dương (TPP). Ðây chính là cơ hội lớn để DN đưa hàng Việt Nam thâm nhập mạnh hơn các thị trường này. Theo các chuyên gia kinh tế, việc quá lệ thuộc vào một thị trường chứa đựng nhiều rủi ro, nhất là trong bối cảnh tình hình chính trị quốc tế có nhiều diễn biến phức tạp như hiện nay. Thực ra không phải bây giờ vấn đề này mới được đặt ra mà ngay từ trước đây, nhất là ngày 28-12-2011, Thủ tướng Chính phủ đã ban hành Quyết định số 2471/QÐ-TTg phê duyệt Chiến lược xuất nhập khẩu hàng hóa thời kỳ 2011-2020, định hướng đến năm 2030. Quyết định nêu rõ: Ða dạng hóa thị trường xuất khẩu; củng cố và mở rộng thị phần hàng hóa Việt Nam tại thị trường truyền thống; tạo bước đột phá mở rộng các thị trường xuất khẩu mới có tiềm năng. Ða dạng hóa thị trường nhập khẩu, cải thiện thâm hụt thương mại với các thị trường Việt Nam nhập siêu. Theo đó, định hướng về cơ cấu thị trường xuất khẩu đến năm 2020: châu Á chiếm tỷ trọng khoảng 46%, châu Âu 20%, châu Mỹ 25%, châu Ðại Dương 4% và châu Phi 5%.
Thực hiện chiến lược này, đòi hỏi các DN trong nước cần chủ động điều chỉnh nhịp độ tăng trưởng nhập khẩu hàng hóa. Quan trọng hơn cả, đây là dịp để thúc đẩy phát triển công nghiệp phụ trợ, phát triển sản xuất nguyên, nhiên, phụ liệu phục vụ các ngành hàng xuất khẩu, đáp ứng nhu cầu trong nước, tập trung vào ngành sản xuất nguyên phụ liệu phục vụ dệt may, da giày...; kiểm soát chặt việc nhập khẩu các mặt hàng không khuyến khích nhập khẩu, góp phần giảm nhập siêu trong dài hạn. Bên cạnh đó, phát huy vai trò, vị thế của Việt Nam trong các tổ chức quốc tế, khu vực và tăng cường hoạt động ngoại giao kinh tế để mở rộng thị trường xuất khẩu; phát triển hệ thống cơ quan xúc tiến thương mại tại các khu vực thị trường lớn và tiềm năng; tăng cường bảo vệ hàng hóa và DN Việt Nam trên thị trường khu vực và thế giới...
Ngoài ra, các DN trong nước cũng cần thay đổi tư duy, thay vì tìm mọi cách để xuất khẩu sản phẩm, nguyên liệu thô, nhập khẩu nguyên liệu giá rẻ để cạnh tranh bằng giá thì cần chuyển sang phân khúc cao hơn, cạnh tranh bằng chất lượng, mẫu mã, uy tín thương hiệu.
Xây dựng quy chuẩn đối với nhóm hàng nông-thủy sản xuất khẩu để nâng cao chất lượng. Việc chế biến sâu, nâng cao giá trị gia tăng hàng xuất khẩu đòi hỏi đầu tư lớn hơn, song điều này đem lại giá trị xuất khẩu cao hơn, là giải pháp phát triển bền vững. Ðồng thời, việc nhập khẩu nguyên vật liệu, phụ liệu có giá cao hơn sẽ sản xuất những mặt hàng chất lượng cao hơn, cạnh tranh hơn trên thị trường.
Ðể làm được điều đó, cần có cơ chế ưu tiên nguồn vốn tín dụng cho các DN chế biến hàng xuất khẩu, áp dụng cho vay bằng ngoại tệ đối với DN xuất khẩu nông-thủy sản để tiếp cận được vốn ngoại tệ với lãi suất thấp; ưu tiên kinh phí cho công tác xúc tiến thương mại, quảng bá sản phẩm Việt Nam tại các thị trường trọng điểm.
"Các DN rất cần sự hỗ trợ của Chính phủ như tăng cường hiệu lực, hiệu quả của quản lý Nhà nước trong hoạt động xuất nhập khẩu; mở rộng hoạt động của các cơ quan xúc tiến thương mại tại nước ngoài, nghiên cứu dự báo và định hướng thị trường trong và ngoài nước để phát triển thị trường và sản phẩm thương mại..." - Chủ tịch Hội Lương thực, Thực phẩm TP Hồ Chí Minh Lý Kim Chi nhìn nhận.
Trong 10 năm trở lại đây, ngành dệt may Việt Nam đã nỗ lực đa dạng hóa nguồn cung cấp nguyên phụ liệu. Trước đây, 75% - 80% nguyên phụ liệu phải nhập khẩu từ Trung Quốc, đến nay, chỉ còn nhập khẩu 37%. Ðây là nỗ lực rất lớn của ngành dệt may bởi chúng tôi từ lâu đã ý thức rõ: Nếu phụ thuộc vào một thị trường thì sẽ rủi ro lớn, cho nên đã nỗ lực nội địa hóa, giảm được lượng nhập khẩu nhiều như vậy. Các DN dệt may nỗ lực đa dạng hóa nguồn cung ứng và nâng cao tỷ lệ nội địa hóa nguyên phụ liệu nên đã giảm được một nửa phụ thuộc vào một thị trường. Bên cạnh đó, chủ động tiếp cận các nguồn cung ứng khác, như thị trường Ấn Ðộ, quốc gia sản xuất dệt may lớn. Ấn Ðộ nằm trong chuỗi cung ứng thời trang, tổng thời gian từ lúc đưa ra một mẫu hàng cho đến lúc đưa ra siêu thị chỉ có 70 ngày. Tập đoàn cũng đã chuyển hướng đặt hàng, gộp đơn hàng để có giá giao hàng tốt hơn. Ngoài ra, tiếp tục nâng tỷ lệ nội địa hóa sản phẩm năm 2020 lên 60%, như vậy, tỷ lệ nhập khẩu nguyên phụ liệu sẽ giảm đi. LÊ TIẾN TRƯỜNG Phó Chủ tịch Hiệp hội Dệt may Việt Nam, Phó Tổng Giám đốc thường trực Tập đoàn Dệt may Việt Nam |