Ngàn hống, người Hà Tĩnh gọi là Rú Hôống, tên chữ Hồng Lĩnh, sáng 21-10-2014 đón một cánh chim hồng trở về quê cũ, nhà thơ Phạm Ngọc Cảnh!
Tám mươi tuổi tròn, Ðại tá, nhà thơ Phạm Ngọc Cảnh không rong ruổi ở cõi đời nữa, ông theo Xuân Diệu, Huy Cận làm một người hiền trong văn phái Hồng Sơn bên cạnh Nguyễn Du, Nguyễn Công Trứ, Ðặng Dung, Nguyễn Huy Tự, Nguyễn Thiếp...
Trong các nhà thơ Việt Nam hiện đại, ít người có cuộc sống phong phú như Phạm Ngọc Cảnh. Khi còn học tiểu học ở thị xã Hà Tĩnh, ông từng đi bán thuốc lào và nhiều nghề khác để kiếm sống cùng người bạn thân là Lê Minh Hương, sau này là Thượng tướng, Bộ trưởng Công an. Mười ba tuổi, năm 1947, vừa hào hứng cách mạng, vừa hào hứng đổi thay để cuộc đời đỡ buồn tẻ, ông gia nhập Vệ quốc đoàn, làm liên lạc, rồi được tuyển vào Ðội tuyên truyền văn nghệ của Trung đoàn 103, bộ đội Hà Tĩnh. Từ đó đến lúc về hưu năm 1997, ông có hơn 50 năm trong quân ngũ. Gần một nửa thời gian ấy, là ở chiến trường Quảng Trị, Thừa Thiên, trong chiến tranh chống Mỹ, cứu nước. Ðó là thời gian ông biên chế trong Ðoàn Văn công Quân khu Trị Thiên, rồi diễn viên Ðoàn kịch nói Tổng cục Chính trị. Vai diễn nổi tiếng một thời là trung úy Phương, trong vở kịch Nổi gió của Ðào Hồng Cẩm. Ðó cũng là thời gian mà con người thơ tiềm ẩn trong ông bùng dậy. Một ngày tháng 11-1965, sau đêm diễn, qua chiếc đài Ô-ri-ông-tông, ông nghe tin về trận Plây Me, trận đánh hiệp đồng lớn đầu tiên giữa ba trung đoàn chủ lực ta đánh bại một sư đoàn kỵ binh không vận Mỹ và hai chiến đoàn ngụy, loại khỏi vòng chiến đấu hàng nghìn tên địch, bắn cháy hàng chục máy bay và xe bọc thép...
Háo hức chiến thắng, tự hào trước sự lớn mạnh của quân đội ta, ngay trong đêm ông cảm xúc viết bài thơ Sư đoàn, bài thơ mang niềm tin và sự tiên đoán; có sức cổ vũ mạnh mẽ quân dân ta trong những năm tháng khó khăn, ác liệt, khi quân Mỹ mới ào ạt đổ bộ vào miền nam: Ðêm trước nấp trong lùm bắn tỉa/ Sớm sau dàn trận chính quy/ Ðến trận bão hiệp đồng cả nước/ Mỗi sư đoàn mang gió lốc bay đi.../ ... Lại có một ngày/ Mọi cửa ô xanh Sài Gòn hớn hở/ Như Hà Nội đã từng/ Ba mươi sáu đường hoa tung sóng đỏ/ Phất rừng cờ thổi hồng ngọn gió/ Ðón con em/ Ðón những sư đoàn/ Mang chiến thắng trở về/ Rập bước/ Ca vang!
Trong các nhà thơ hiện đại Việt Nam, ít ai đốt cháy mỗi tế bào để sống dào dạt với đời, với anh em đồng đội, với thơ như Phạm Ngọc Cảnh. Ông là người có ý thức làm mới, làm náo hoạt thơ ca ở mỗi chữ. Hình như ông muốn bắt thơ và sau thơ là đời, cũng phải sống sâu hơn, gấp hơn, mạnh mẽ hơn; vượt lên cái tầm thường, tẻ nhạt. Tôi nhớ bài Chuyện của hai ta, nhà thơ Phạm Ngọc Cảnh đã lột tả tận cùng sự nôn nao của những kẻ đang yêu: Nhưng vắng nhau một chiều tất tả/ Em gọi anh nôn nao chân trời. Rồi Lục bát để dành với những điểm nhấn mãnh liệt từng câu, từng chữ: Bắt con sông Mã lôi về/ Câu huầy dô ướt dầm dề trước sân. Bài Sông Thương từ phía bạn giãi bày nỗi niềm nhớ thương, ngóng đợi: Năm vừa rồi gió bấc quét như điên/ Lòng tôi buốt căm căm về phía ấy...
Như sự hữu duyên, những khát khao, bỏng cháy luôn thiêu đốt tâm can ấy trở thành một ngọn lửa sáng không tắt, thành một thăng hoa Phạm Ngọc Cảnh, đó là trường hợp Lý ngựa ô ở hai vùng đất. Bài thơ được viết năm 1976, sau giải phóng một năm. Âm vang chiến thắng, niềm tự hào về Tổ quốc, thẳm sâu tình yêu quê hương, tình yêu đôi lứa, văn hóa ba miền bắc, trung, nam hòa quyện, cảm hứng lịch sử và con người cá nhân, thực và ảo cùng cất tiếng làm nên một bài thơ đầy tinh chất. Mỗi câu thơ là một tài hoa của tác giả, một vẻ đẹp của con người và văn hóa Việt Nam.
Thơ Phạm Ngọc Cảnh - Vũ Ngàn Chi (bút danh ở chiến trường) viết về chiến tranh mà không có bom đạn, căm thù. Hơn ai hết, người Việt Nam, người chiến sĩ Quân Giải phóng đều tha thiết với hòa bình, chiến đấu vì hòa bình, vì độc lập và thống nhất Tổ quốc. Cùng với độc lập Tổ quốc, là mục tiêu nhân bản, yêu thương và nâng niu con người. Hơn ai hết, người Việt Nam và chiến sĩ Quân Giải phóng đau nỗi đau con người; hiểu rõ, trân trọng và chiến đấu vì cái đẹp, vì quyền con người.
Nhà thơ Phạm Ngọc Cảnh được tặng Giải thưởng Nhà nước về văn học nghệ thuật năm 2007. Ông là nhà thơ thuộc Ban Sáng tác của Tạp chí Văn nghệ Quân đội từ năm 1971; là cộng tác viên thân thiết của Báo Nhân Dân. Báo Nhân Dân cũng là nơi trân trọng, nâng niu từng sáng tác của ông và các nhà thơ, nhà văn khác, góp phần làm nên cả một thế hệ cây bút vàng. Mỗi khi có bài thơ mới, hay đi làm phim ở đâu về, Phạm Ngọc Cảnh thường ghé qua Trụ sở Báo Nhân Dân ở 71 Hàng Trống, Hà Nội, nơi có các bậc đàn anh; nhiều hơn là các đàn em và đồng đội cũ ở chiến trường để đọc thơ và kể chuyện cuộc đời. Ông kể một cách say mê và hấp dẫn, nhất là những câu chuyện tình yêu. Bài thơ Trăng lên với những tứ thơ độc, người đọc cảm nhận từng cung bậc cảm xúc: Trăng lên - kìa trăng lên/ Quảng trường dâng biển sáng... viết trên trang giấy học trò, vừa viết xong, ông mang ngay lên "khoe" với các biên tập viên văn nghệ Báo Nhân Dân. Sau khi được đăng trên Báo Nhân Dân, bài thơ được Thuận Yến phổ nhạc và nhanh chóng trở thành bài hát phổ biến...
Nói về cái sự làm phim của ông, cũng thật nhiều nông nỗi. Một phần vì ông có tài chữ nghĩa, mà lời bình phim của ông chất chứa cái hồn của từng nhân vật, lẽ sống nên đoàn làm phim nào cũng chèo kéo. Mặt khác, cũng vì ông phải kiếm tiền, gánh vác gia đình. Vợ ông, bà Vũ Thị Tỵ, người con gái làng Bưởi, diễn viên múa xinh đẹp mà ông rất tự hào gọi là "Cô Tấm ở trong nhà" bỗng dưng ngã bệnh, nằm liệt mười mấy năm trời. Vào những năm 90, vợ chồng tôi thường sang Khu tập thể Nhà máy gỗ Cầu Ðuống thăm ông bà (mà chúng tôi coi như anh chị trong nhà), thấy ông làm đủ mọi việc để phục vụ bà, từ tắm rửa, thay quần áo, kể chuyện tiếu lâm... Ngoài thơ, ông phải làm việc cật lực để kiếm sống cho cả nhà, thuốc men cho vợ. Ông không biết và cũng không muốn làm gì ngoài nghệ thuật. Mà kiếm tiền bằng nghệ thuật thì nặng nhọc xiết bao! Ông viết lời bình tới 600 bộ phim, tôi không nghĩ đó là "thành tích nghệ thuật" mà càng nghĩ, càng thương ông. Cũng vào những năm 80, tôi có được mời viết lời bình phim truyền thống, có cái chỉ được 200 nghìn đồng!
Chứng tai biến khiến ông nằm bệnh dài dài, nhớ nhớ quên quên vào những năm cuối đời. Sau khi bà Tỵ qua đời; ông được một người phụ nữ Xứ Thanh chăm sóc chu đáo; âu cũng là có phúc, có phần!
Sinh thời, nhà thơ Phạm Ngọc Cảnh bộc bạch, vì sao đang từ một diễn viên nổi tiếng lại chuyển sang thơ. Ấy là vì ông muốn có tiếng nói riêng của mình. Một thứ tiếng nói có thể đối thoại trực tiếp với một người. Không cần hai cánh màn khép mở. Không cần cái khung kịch bản văn học, kịch bản đạo diễn. Không đợi lên đèn. "Cuộc tìm kiếm thơ ca đầy quyến rũ và không bị trói buộc ấy là của tôi", ông nói. Và "khi có dấu hiệu mệt mỏi, tôi thường ngoái lại gọi tên một người lính, một người tình; hai người này chứ không phải ai khác đã cổ vũ tôi, nâng sức tôi bay tiếp".
Giờ đã khép lại tất cả rồi! Cả cánh màn nhung. Cả thơ ca quyến rũ... Ông đã về với người vợ hiền, người tình buổi đầu đời. Ông đã về Núi Nài, Ngàn Hống đăm đăm miền chôn nhau cắt rốn. Ông đã về với bản nguyên của vũ trụ sinh thành.
Từ nay, làng văn nói chung, làng văn quân đội nói riêng mất đi một bậc trưởng thượng, một con người thường lấy nụ cười và sự chăm chút cho nhau làm vui ấm cuộc đời. Xuân Diệu, Huy Cận, Chính Hữu, rồi ông nữa ra đi, làm rỗng cả một trời thơ Hà Tĩnh!
Từ nay, những ngôi làng ven sông Ðuống tháng tư Hội Gióng tưng bừng không còn bóng một người trai Xứ Nghệ, mang giấc mơ Phù Ðổng rong ruổi tâm hồn yêu nước suốt mọi cuộc trường chinh giữ nước. Anh lớn lên vó ngựa cuốn về đâu/ Gặp câu hát bền lòng rong ruổi mãi/ Ðường đánh giặc trẩy xuôi về bến bãi/ Lý ngựa ô em hát đợi bên cầu...
Tôi tin là, những nhọc nhằn, âu lo với ông giờ đã hết. Nhưng những giai nhân, những điệu lý thương nhau vẫn chờ ông đâu đó, mãi mãi...
22-10-2014
Ngày tiễn đưa nhà thơ Phạm Ngọc Cảnh