Lý luận phê bình trong nhiếp ảnh

Trước hết, cần phải thấy rằng lý luận và phê bình nhiếp ảnh của chúng ta mới dừng ở mức độ vừa phải. Nhiều hiện tượng mỹ học về nhiếp ảnh chưa được đánh giá đúng đắn và kịp thời. Các cây bút chưa được trang bị nhiều những hiểu biết cơ bản về mỹ học nhiếp ảnh, một mảng lý luận mới mang tính chuyên ngành đặc thù cần thiết cho sự thống nhất, sự nhìn nhận về nhiếp ảnh. Chính vì thế sự thống nhất về các quan niệm cơ bản còn chưa có, chưa được khẳng định. Ngay trong giới cũng có những người chỉ lấy cảm tính làm thước đo tiêu chuẩn cho đánh giá, phê bình nghệ thuật. Ðó là thước đo nhưng không phải là thước đo duy nhất.

Tập hợp từ nhiều chuyên ngành khác nhau như mỹ thuật, văn học, lịch sử nghệ thuật, báo chí... dưới nhiều góc độ khác nhau, lại không có những trao đổi thường xuyên về những nguyên lý cơ bản về mỹ học nhiếp ảnh, việc cọ xát giữa những cây bút là đương nhiên và có tính quy luật. Những phát biểu không nhất quán, trong các chương trình giảng dạy, trên báo chí, đôi khi làm người đọc sửng sốt, gây ra những thắc mắc không đáng có. Thêm vào đó lại có sự can thiệp có tính hành chính vào các cơ quan báo chí làm hạn chế tác dụng của tranh luận, không thúc đẩy sự phát triển của tự do sáng tạo. Thực ra nếu nhìn nhận lại thì ta thấy rằng những vấn đề đưa ra là kịp thời, có tính tích cực vào quá trình hội nhập, nâng cao tính chiến đấu, tính xã hội của nghệ thuật nhiếp ảnh, cũng như sự phát triển đa dạng của các thể loại ảnh. Cái gốc của những thành tựu trong lý luận phê bình chính là những con người lý luận của chúng ta khá thuần khiết, có kinh nghiệm chính trị, có trải nghiệm thực tiễn nghệ thuật và lành mạnh trong cách đánh giá các hiện tượng nghệ thuật.

Cần phải thấy rằng việc thẩm định những tác phẩm nhiếp ảnh không phải là lúc nào cũng dễ dàng. Ngoài những mục tiêu nhất thời còn có những mục tiêu xa hơn, và có những mục tiêu mang tầm nhân loại.

Trên thực tế thì nghệ thuật nhiếp ảnh của nước ta dù phát triển rất nhanh chóng nhưng cũng không gây ra những sốc lớn trong tiếp nhận tác phẩm. Có chăng những tranh cãi thường chỉ xảy ra ở những sai sót trong quá trình thẩm định ảnh, mà đó là những sai sót không đáng có do sơ suất hoặc thiếu sót về nhận định mỹ thuật của bức ảnh.

Trong điều kiện các ấn phẩm in ấn chất lượng cao về ảnh còn chưa rộng rãi và phổ biến như hiện nay thì trình độ người xem yêu cầu với nghệ thuật nhiếp ảnh cũng ở mức vừa phải. So với sự phát triển nghệ thuật nhiếp ảnh ở các nước có trình độ phổ cập nhiếp ảnh cao hơn thì nhiều cái đương nhiên đối với họ thì lại là cái mới đối với ta. Cái đó có cái dễ cho những người cầm bút làm công tác lý luận, phê bình. Nhiều cái cũ người, mới ta. Nhiều cái còn là những con đường rộng mở. Sự tranh cãi cũng ở mức nhận thức trung bình, chưa đi sâu vào học thuật, không đòi hỏi phải có sự uyên bác, suy tư có tính triết học. Muốn sáng tác có bản sắc, muốn sự thay đổi trong phong cách phải có một quá trình dài mà hiểu biết về lý luận chỉ là một mảng trong kiến thức nhiếp ảnh, với một trình độ nào đó, với những khám phá còn ở trình độ vỡ vạc thì lại chưa thật sự cần thiết. Gần đây, khi nghiệm thu chương trình đổi mới về đào tạo nhiếp ảnh tại khoa báo chí một trường đại học, chúng tôi cũng đề nghị đưa phần lý luận nhiếp ảnh về những năm sau, khi hoàn thành luận án, hoặc khi chuẩn bị tốt nghiệp để bảo đảm tính thống nhất của một quy trình đào tạo, giúp học viên hiểu sâu hơn những vấn đề nhiếp ảnh.

Khi sáng tác, chúng ta không tránh khỏi những dẫn dắt cảm tính, chệch mục tiêu sáng tạo ban đầu. Có một quan điểm vững chắc chỉ có thể là những người đã có tìm hiểu sâu và kỹ lưỡng về đối tượng của mình. Phong cách sáng tạo ổn định cũng sẽ hình thành từ đó.

Mang một triết lý sâu sắc vào nghệ thuật nhiếp ảnh là khó. Chúng ta không ngoại trừ dùng nhiếp ảnh như một công cụ nghệ thuật để thực hiện các ý tưởng, nhưng do tính hiện thực của nó, nhiếp ảnh đôi khi làm cho những khái niệm trừu tượng khó đến với độc giả. Dù sao nhiếp ảnh cũng không loại trừ khả năng đó. Ðôi khi nhiếp ảnh phải kết hợp với các nghệ thuật khác để hoàn thành mục tiêu của mình. Trong trường hợp đó nhà phê bình lý luận phải đứng ở tư cách là người bình luận nghệ thuật đa ngành, đòi hỏi phải có những hiểu biết về chuyên ngành nghệ thuật khác gần gũi với nhiếp ảnh như các nghệ thuật tạo hình.

Những trung tâm nhiếp ảnh lớn như thành phố Hồ Chí Minh và Hà Nội có khả năng tạo ra những tụ điểm nghệ thuật, cũng là những nơi có khả năng đưa ra những tiêu chí mới trong sáng tạo, có sự đổi mới qua những giai đoạn khác nhau. Nhưng việc thiếu vắng lý luận nhiếp ảnh thực sự đã khiến sự bảo thủ trong sáng tạo lại có phần nặng nề. Theo thói quen, một số khẩu vị sáng tạo được truyền thụ qua kinh nghiệm được coi là những chuẩn mực nghệ thuật bất biến, khiến nó thiếu tinh thần sáng tạo vốn thuộc về bản chất của nghệ thuật. Vì thế người ta cũng không lấy làm ngạc nhiên khi có nhiều bức ảnh vẫn đứng ở tầm thấp, thiếu sáng tạo lại được coi là nghệ thuật sinh ra như nấm sau mưa từ các xa-lông nghệ thuật gia đình. Tình trạng đó còn tồn tại đến bao giờ cũng còn là một dấu hỏi không dễ dàng khắc phục ngày một, ngày hai.

Nêu lên một thực trạng chỉ là một cách thức để chúng ta khắc phục nó. Con đường sáng tạo của chúng ta còn dài nhưng không có nghĩa rằng nó không cần sự hối thúc nhất định nào đó. Tôi không nói là công chúng cao hơn nghệ thuật, nhưng họ có quyền đòi hỏi ở những người cầm máy một chất lượng sáng tạo cao hơn. Và đương nhiên có một phần trách nhiệm của công tác lý luận phê bình nhiếp ảnh.

Có thể bạn quan tâm