Gần trưa, nắng đổ nghiêng trên sườn non, ong óng như mật ong bạc hà, nương ngô lá xanh sẫm, lay động, kéo một vệt dài từ đỉnh núi xuống tận bờ vực, dưới đó là dòng Nho Quế đang ì ầm mạch nguồn về xuôi. Tôi lặng lẽ dạo quanh Cột mốc, rồi đề nghị mọi người chụp ảnh làm kỷ niệm, bởi tôi biết rất khó khăn khi trở lại vùng đất này, phần vì công việc, phần vì sức khỏe, tuổi tác, rồi còn đường đất xa xôi, cách trở, vì phải qua nhiều cổng trời, vực sâu, sông suối. Tôi tìm một mỏm đá cao, đứng ngắm nhìn núi non, làng bản thật lâu, và cố gắng lưu giữ trong tâm khảm, suy nghĩ, tình cảm của mình về hình ảnh địa đầu Tổ quốc. Bởi với mọi người Việt Nam, mỗi khi nhắc đến Lũng Cú, trong lòng lại dâng lên cảm xúc mãnh liệt. Và hôm nay chúng tôi gọn gàng khăn áo, đứng thành hàng ngang, nghiêm trang như những người lính, cúi đầu chào Cột mốc Tổ quốc. Tôi nhặt một viên đá ba cạnh, bỏ vào túi xách để làm kỷ niệm. Trên đường, người lính trẻ quê ở Nghệ An tâm sự với tôi: 'Năm trước cháu cũng lấy hòn đá ở chân cột mốc, vào dịp nghỉ phép, cháu mang về đặt bên bàn thờ Tổ, cầu mong cho đất nước bình yên phát triển, mọi người no ấm hạnh phúc'.
Cho đến nay tên gọi Lũng Cú vẫn có nhiều giả thiết khác nhau. Lũng Cú có thể là 'long cư' (rồng ở, động rồng), hoặc là 'lũng ngô' bởi cánh đồng Thèn Pả trồng nhiều ngô. Lại có giả thiết, Lũng Cú là tên người đứng đầu một dòng họ Lô Lô, đã có công khẩn hoang, bảo vệ và phát triển vùng đất. Nhưng nhiều người cho rằng, Lũng Cú có lẽ bắt đầu từ chữ 'long cổ', nghĩa là: Trống Rồng. Theo sử sách vào thời Tây Sơn, Hoàng đế Quang Trung đã cho đặt ở nơi biên ải hiểm trở này một chiếc trống lớn, thời đó tiếng trống là phương tiện thông tin nhanh nhất, vị trí đặt trống đồng của nhà vua là trạm biên phòng tiền tiêu Lũng Cú bây giờ. Thái úy Lý Thường Kiệt cũng có lần hội quân lớn ở địa điểm này, nhằm biểu dương sức mạnh và ý chí bảo vệ bờ cõi...
Lũng Cú là vùng quê lâu đời của đồng bào Mông và Lô Lô; diện tích tự nhiên 3.460 ha; 503 hộ; 3.051 nhân khẩu. Bà con ở Lũng Cú chủ yếu trồng ngô trên nương rẫy và làm ruộng bậc thang cấy lúa. Ðồng bào Mông, Lô Lô vẫn bảo tồn nghề dệt truyền thống với các công đoạn se lanh, dệt vải, rèn đúc lưỡi cày và làm ngói âm dương để lợp nhà. Các năm trước, khi nhắc tới Lũng Cú, hình ảnh ấn tượng trong lòng du khách là đường giao thông xuyên qua những dãy núi đá tai mèo cheo leo hiểm trở, mùa đông kéo dài, trời lạnh buốt và có tuyết rơi, có lúc nhiệt độ xuống dưới âm 5 độ C. Trong sự nghiệp đổi mới, với các chủ trương, chính sách của Ðảng, Nhà nước đối với các đồng bào vùng cao nói chung và bà con các dân tộc thiểu số ở Lũng Cú nói riêng, Lũng Cú đã có nhiều đổi thay. Từ năm 2001, đường từ Ðồng Văn lên Lũng Cú được nâng cấp, trải nhựa. Dòng điện quốc gia đã thắp sáng mảnh đất địa đầu; cột cờ Tổ quốc đã được dựng trên đỉnh Núi Rồng. Lá cờ rộng 54 m2, tung bay kiêu hãnh giữa bầu trời biên cương, như ngọn lửa bất diệt, in bóng xuống mặt hồ Lô Lô xanh biếc. Nhìn từ xa, cột cờ như một ngọn tháp, có hình dáng cột cờ Hà Nội, cao 33,15 m. Trong đó, phần thân cột 20,25 m, phần cán cờ 12,9 m. Ðường kính ngoài thân cột 3,8 m, bố trí 135 bậc lên đỉnh cột. Thân cột được thiết kế theo hình bát giác, ốp đá gra-nit, gắn tám hình trống đồng và tám bức phù điêu đá xanh, minh họa các giai đoạn, qua từng thời kỳ lịch sử của đất nước, cũng như con người và phong tục tập quán của đồng bào các dân tộc Hà Giang. Nhà lưu niệm được thiết kế theo mẫu nhà của đồng bào các dân tộc, có tổng diện tích 230 m2. Ngoài ý nghĩa là vùng đất địa đầu thiêng liêng của Tổ quốc, Lũng Cú còn được xếp vào loại Tổ hợp di sản cấp quốc tế, khi cao nguyên đá Ðồng Văn được UNESCO công nhận là Di sản thiên nhiên thế giới, trong mạng lưới công viên địa chất toàn cầu (GGN).
Gió thổi ào ào đưa chân chúng tôi xuống núi, hoa dại nở tràn hai bên lối mòn. Lũng Cú vào mùa này, ngoài các loài hoa không tên, còn có hoa trẩu và hoa tầm xuân trắng ngần, xôn xao bên vách vúi, ngỡ như hàng ngàn cánh bướm quyến rũ. Vì độ dốc lớn nên đất đai ở đây thường bạc màu, đồng bào vẫn gọi nôm na là 'đất già, đất nhạt'. Diện tích đất hoang hóa ở Lũng Cú còn nhiều, nên chọn cây gì cho thích hợp, rút ngắn thời gian thu hoạch, đem lại hiệu quả kinh tế là điều cần phải tính toán. Do vậy xã Lũng Cú đang đẩy nhanh việc trồng rừng trên những mảnh đất còn lổn nhổn đá và sỏi. Chúng tôi tạt vào ngôi trường mầm non nghỉ chân, cũng là lúc các em vừa hết tiết học. Chừng mười em cả trai lẫn gái chạy nhảy tung tăng, nói cười ồn ã trên khoảng sân trường bằng phẳng. Cô giáo trẻ Vừ Thị Mỷ 23 tuổi, người con của bản Séo Lủng, gương mặt rạng rỡ, tiếp chúng tôi ở góc hành lang trường. Mỷ bảo: 'Ở vùng cao hiện giờ đã được đầu tư, trường lớp khang trang, tiện nghi đầy đủ. Trước đây bàn viết cho học sinh là những tấm gỗ thải đóng thẳng xuống đất, hoặc mấy cây bương ghép lại làm ghế cho các em ngồi, mái lợp mục nát, mưa thì dột ướt, lạnh lẽo, nay thì khác rồi'. Nhìn ngôi trường tươm tất với lũ trẻ cười đùa vô tư. Tôi mừng cho Mỷ, mừng cho sự nghiệp giáo dục miền núi đang có sự thay đổi to lớn.
Qua nhiều biến cố của lịch sử, hơn 50 hộ người Mông ở Séo Lủng vẫn trụ vững, đoàn kết giúp đỡ nhau lúc tắt lửa tối đèn. Các Chương trình 134, 135 của Chính phủ được tích cực thực hiện, đã làm cho bộ mặt Séo Lủng thay đổi hẳn. Hầu hết mái nhà dân đều lợp phi-brô xi-măng, nhà nào cũng có bể nước ăn, còn có một bể nước công cộng ở giữa bản lúc nào cũng đông người. Ngô thu hoạch từ năm trước treo đầy trên gác bếp và ngoài hiên nhà. Nhiều gia đình còn làm chuồng nuôi bồ câu, có nhiều nhà chim én tự về làm tổ, tiếng chim non đòi ăn, tiếng hót gọi bạn của lũ chim líu lo nghe thật vui tai, ngoài ra đồng bào còn nuôi ong lấy mật. Ðể tự nâng cao đời sống và tăng thu nhập, đồng bào biết kết hợp gieo trồng: ngô giống mới cho năng suất cao, và tam giác mạch, đậu tương, đậu răng ngựa, rau quả các loại, đàn bò, dê, gà, lợn... Trưởng thôn Sùng Chìa Na, dân tộc Mông 42 tuổi, tâm sự với tôi: 'Hiện giờ từ Lũng Cú lên Séo Lủng, con đường liên thôn dài hơn một km đã được nâng cấp, trải nhựa, nên việc đi lại của người dân thuận lợi. Nhưng người dân Séo Lủng vẫn mơ ước, mở rộng thêm con đường này cho xe ô-tô lên bản, có cả bãi đỗ xe, nhà lưu niệm nhỏ thôi, để du khách lên với Séo Lủng, cảm nhận đầy đủ hơn phần đất thượng cùng Tổ quốc, và cũng từ đây du khách có thể nhìn ngắm được đầu nguồn sông Nho Quế chảy vào đất Việt, có điều kiện thăm cột mốc 422, điểm cao nhất của Tổ quốc Việt Nam'. Tôi cười và nói với Sùng Chìa Na: 'Mơ ước ấy đã nằm trong tầm tay, vấn đề là thời gian mà thôi'. Chia tay Séo Lủng mảnh đất chót vót đầy kiêu hãnh ấy, tôi chợt nhớ mấy câu thơ của mình viết được sau lần đầu tiên lên với Séo Lủng từ những năm 80 của thế kỷ 20: Tôi ngắm nghìn mê đắm một ban mai - Séo Lủng ơi còn đâu cao hơn thế - Những kho báu nằm im trong ruột đá - Ðang hừng lên lồng lộng dưới mặt trời... Buổi chiều, Trạm trưởng đồn tiền tiêu Lũng Cú là Ly Mý Dình 31 tuổi, dùng xe máy đưa tôi đi Tả Giao Khâu, cách trụ sở xã sáu km. Tả Giao Khâu là một trong chín thôn bản của Lũng Cú, có 101 hộ đồng bào Mông sinh sống, cấy lúa trên ruộng bậc thang, trồng ngô hốc đá. Trưởng thôn Thò Chúng Chơ kể với chúng tôi rằng: 'Tình trạng khan hiếm nước ở đây cơ bản được giải quyết. Toàn thôn không có hộ đói. Do biết áp dụng kỹ thuật canh tác, chăn nuôi, cho nên lúa, ngô đạt năng suất cao, đàn gia súc như bò, ngựa, dê,... ngày một đông hơn. Tình hình an ninh biên giới được giữ vững. Có điện lưới quốc gia, đêm đêm Nhà văn hóa thôn trở thành điểm hẹn của đồng bào, mọi người đến xem chương trình truyền hình của VTV rất đông. Thanh niên nam nữ, thường xuyên tổ chức văn nghệ, hoặc giao lưu với các thôn bản khác'.
Mặt trời vừa tắt nắng, sương trắng đã phủ mờ trên các đỉnh núi. Lũng Cú chầm chậm vào đêm, bầu trời cuối tháng trong veo, lấp lánh triệu triệu vì sao. Có thể vì Lũng Cú ở độ cao 1.800 m so với mặt nước biển mà tôi có cảm giác, với bàn tay là chạm tới đỉnh trời. Gió thổi ràn rạt, khiến lá cờ Tổ quốc trên đỉnh Núi Rồng réo lên như có bão... Ở nơi địa đầu vắng bóng cờ Tổ quốc dù chỉ một ngày là điều không thể. Vì đây là chủ quyền thiêng liêng của quốc gia, dân tộc... Ðêm Lũng Cú chìm sâu, im vắng vô cùng. Khi tiếng trống đồng từ phía Lô Lô Chải vọng về, cứ ngỡ như hồn sông núi ngàn năm tụ lại. Chợt nhớ qua câu chuyện với trưởng thôn Lô Lô Chải là Vàng Dỉ Giai, tôi được biết, Lô Lô Chải là thôn văn hóa, nổi tiếng không chỉ ở Ðồng Văn, mà cả tỉnh Hà Giang, ở đây đồng bào còn gìn giữ hầu như nguyên vẹn bản sắc văn hóa của tổ tiên, ông bà để lại như hát dân ca, múa, tấu trống đồng, kiến trúc nhà ở, y phục, đồ trang sức của phụ nữ. Hiện giờ, Lô Lô Chải có 96 hộ bà con là người dân tộc Lô Lô, 14 hộ dân tộc Mông. Không phân biệt dân tộc, cùng chung tay xây dựng làng bản, đồng bào sống chan hòa, cần cù lao động, nên đời sống đỡ khó khăn hơn trước rất nhiều.
Trên đường về xuôi, tôi mang theo nỗi nhớ về một vùng quê trùng trùng núi đá, đầy huyền thoại và bí ẩn, cùng với đặc sản chè shan, rượu mật ong, thắng cố thơm say đậm đà, xứ sở của đào phai, hoa lê tuyết trắng và náo nức buổi chợ phiên. Tiếng đàn môi tâm tình gọi bạn, tiếng khèn Mông quyến rũ người tình, tiếng trống đồng âm vang bên bếp lửa nồng đượm đêm dài... Xuống hết cổng trời Thẩm Mã, gặp ngã ba Viềng, phần đất huyện Yên Minh, tôi ngoái lại phía Vần Chải, núi non chất ngất, miên man một vùng đất trời Tổ quốc.