Càng gần đến thời điểm mà Nhà nước cho phép nhập khẩu ô-tô đã qua sử dụng, thị trường ô-tô càng diễn biến phức tạp.
Trong tháng 1-2006, 11 thành viên cũ của Hiệp hội các nhà sản xuất ô-tô Việt Nam (VAMA) chỉ bán được 1.517 xe, bằng 35% so với tháng 12-2005 và bằng 64% so với mức 2.369 xe cùng kỳ này năm trước. Người tiêu dùng đang cân nhắc, so sánh giá cả, chất lượng, chủng loại và mỗi người đều hy vọng là giá xe sẽ hạ và sẽ có nhiều lựa chọn hơn đối với những chiếc xe đã qua sử dụng nhập khẩu nguyên chiếc, được coi là mặt hàng "xa xỉ" trong những năm trước.
Trước tình hình đó, hàng loạt hãng xe lớn như TOYOTA, FORD, VIDAMCO... đã giảm giá sản phẩm của mình. Thời gian qua có nhiều loại xe giảm giá mạnh như TOYOTA ZACE năm 2005 giá bán là 32.000 USD nay giảm xuống còn 29.000 USD. Hãng xe MERCEDES đầu năm 2006 đã chính thức tăng giá nhưng thực tế giá xe giao cho khách hàng vẫn giảm vài nghìn USD so với năm 2005. Những dòng xe sang trọng của hãng này giảm giá khuyến mại đặc biệt như xe C180K Classic (biểu giá là 59.200 USD, giá bán là 54.999 USD, giảm gần 10%), xe C240 (biểu giá là 81.000 USD, giá bán là 64.999 USD, giảm hơn 20%).
Ngoài việc giảm giá bán, các hãng ô-tô còn đưa ra những chương trình khuyến mãi hấp dẫn nhằm tăng doanh số tiêu thụ. Tuy nhiên, với những động thái này, thị trường xe ô-tô vẫn đang trong tình trạng ế ẩm.
Nguyên nhân chính của tình trạng này là người tiêu dùng, chủ yếu là người tiêu dùng cá nhân, đang chờ những sự thay đổi về giá và sự lựa chọn sản phẩm khi Nhà nước cho phép nhập khẩu ô-tô đã qua sử dụng. Trước những năm 1990, việc nhập khẩu ô-tô đã qua sử dụng đã được thực hiện. Nhưng sau đó, Nhà nước có chủ trương hạn chế nhập khẩu bằng chính sách thuế tiêu thụ đặc biệt và thuế nhập khẩu rất cao đối với loại xe này và có thời kỳ cấm nhập khẩu hoàn toàn.
Nhưng trước xu thế hội nhập khu vực và trên thế giới, trong giai đoạn gia nhập Tổ chức Thương mại thế giới (WTO), Nhà nước có những chính sách phù hợp tiến trình hội nhập. Một trong những chính sách này là cho phép nhập khẩu ô-tô đã qua sử dụng (thường gọi là ô-tô cũ). Theo lộ trình hội nhập và gia nhập WTO, theo thông lệ quốc tế, thuế đối với loại xe này sẽ được hạ theo lộ trình hội nhập.
Những lợi ích của việc nhập khẩu ô-tô cũ
Thứ nhất, mọi người đều cho rằng, người tiêu dùng là người được hưởng lợi đầu tiên. Hiện nay, giá ô-tô ở Việt Nam đang cao một cách phi lý, là một trong những nơi cao nhất thế giới, gấp hơn hai lần so với các nước phát triển và khoảng 1,5 lần so với các nước trong khu vực. Một số loại xe thông dụng như: BMW 3-series, giá tại nước sở tại là 29.300 - 37.450 USD thì giá tại Việt Nam là 63.500 - 76.000 USD; TOYOTA Camry, giá tại nước sở tại là 19.025 - 25.555 USD thì giá tại Việt Nam là 51.600 - 65.000 USD. Theo tính toán của một số chuyên gia thì người tiêu dùng Việt Nam đang phải trả đắt gấp ba lần người Mỹ cho một chiếc xe tương đương. Sở dĩ có hiện tượng này là do thị trường ô-tô Việt Nam bị chi phối bởi các nhà sản xuất 100% vốn nước ngoài hoặc những liên doanh ô-tô với nước ngoài mà không hề có đối trọng cạnh tranh từ những nhà sản xuất ô-tô trong nước hay những sản phẩm ngoại nhập.
Bên cạnh đó, công suất của những nhà máy sản xuất quá thấp, chỉ khoảng 30% tổng số công suất đăng ký là 148.000 xe/năm. Những linh kiện chủ yếu là nhập khẩu từ công ty mẹ cho nên không thể kiểm soát được mức giá thực. Mức giá cao như vậy nhưng lượng xe tiêu thụ năm sau vẫn cao hơn năm trước. Nếu như năm 1999 chỉ có 22.596 xe thì đến năm 2004 đã có 81.497 xe đăng ký, nâng tổng số xe cả nước lên 756.497 chiếc.
Nếu Nhà nước cho phép nhập khẩu ô-tô cũ, với chính sách thuế như hiện nay bao gồm 150% thuế nhập khẩu, 50% thuế tiêu thụ đặc biệt, 10% thuế giá trị gia tăng (VAT) thì một chiếc xe cũ tại nước ngoài mua với giá 5.000 USD thì khi nhập khẩu vào Việt Nam phải chịu thuế nhập khẩu là 7.500 USD, thuế tiêu thụ đặc biệt là 6.250 USD và thuế VAT là 1.875 USD, tổng cộng giá là 20.625 USD, chưa kể phí vận chuyển.
Giá xe cũ được chào bán trên mạng chẳng hạn như TOYOTA Camry V6 sản xuất năm 2003, đi 53.601 dặm, giá 15.490 USD, MAZDA6 sản xuất năm 2003, đi 83.038 dặm, giá 11.995 USD, MERCEDES C240 sản xuất 2003, đi 32.097 dặm, giá 21.900 USD. Ðây là giá bán lẻ của một xe, không phải mua theo lô và không phải giá được người mua trả trên mạng.
Với mức giá này, nếu nhập khẩu vào Việt Nam thì giá sẽ dao động trong khoảng 4,125 lần giá mua tại nước sở tại. Như vậy giá xe cũ có rẻ thật không nếu người tiêu dùng sẽ phải trả đến 41.250 USD cho một chiếc xe có giá 10.000 USD tại nước ngoài? Giá xe chỉ có thể thấp khi nhập khẩu với mức giá rất thấp. Trong trường hợp này, xe nhập khẩu sẽ là đối trọng cạnh tranh với những xe sản xuất trong nước, buộc các hãng xe phải giảm giá. Và người tiêu dùng được lợi trong việc giảm chi phí đối với cùng một giá trị sử dụng và có nhiều cơ hội lựa chọn những sản phẩm đa dạng hơn.
Thứ hai, Nhà nước thu được một lượng thuế đáng kể trong việc nhập khẩu xe cũ. Nếu các nhà máy sản xuất trong nước nhập khẩu bộ linh kiện lắp ráp không sử dụng hết linh kiện có thể tái xuất sang các nước khác và được khấu trừ thuế cho những sản phẩm không sử dụng hay những xe "không bán được". Như vậy, phần thuế thu được của các nhà máy sản xuất xe trong nước không ổn định như thuế thu từ nhập khẩu xe cũ.
Thứ ba, ngành công nghiệp ô-tô trong nước phải chấp nhận quy luật cạnh tranh. Ðây là động lực thúc đẩy các doanh nghiệp lắp ráp ô-tô tăng tỷ lệ nội địa hóa, giảm giá thành nhằm bảo đảm năng lực cạnh tranh để tồn tại và phát triển.
Những thua thiệt
Ðầu tiên là nếu lượng xe quá nhiều, cơ sở hạ tầng giao thông không thể đáp ứng được nhu cầu tăng nhanh của phương tiện. Ngay tại thời điểm này, hiện tượng tắc nghẽn giao thông xảy ra thường xuyên tại những thành phố lớn đã làm giảm hiệu quả lao động sản xuất, gây lãng phí nguồn lực của toàn xã hội. Nếu ô-tô giá rẻ tràn ngập thị trường thì rồi đây, những người đi làm sẽ phải mất hàng giờ để đến nơi làm việc và thành phố tràn ngập xe không có điểm đỗ. Tình trạng này gây thiệt hại lớn cho toàn xã hội.
Hai là, hiện tượng ô nhiễm môi trường sẽ tăng lên do khí thải của các loại xe cũ gây ra. Nhà nước đã chủ trương chỉ cho nhập khẩu loại xe sản xuất trong vòng 5 năm trở lại đây nhưng không ai dám chắc nhà nhập khẩu có tuân thủ những quy định này một cách nghiêm ngặt hay không, liệu có xảy ra tình trạng thay đổi đời xe để nhập về những xe quá hạn hay không?
Ba là, nguồn lực trong nước bị phân tán do phải sử dụng một lượng lớn ngoại tệ để nhập khẩu phương tiện, có thể lên đến hàng trăm triệu USD.
Với những đánh giá tổng quát về lợi, hại của việc nhập khẩu ô-tô đã qua sử dụng, chúng tôi xin đề xuất một số ý kiến:
Về chính sách thuế, Bộ Tài chính đang xem xét chính sách thuế hiện tại hay chính sách thuế tuyệt đối. Nên chăng áp dụng chính sách thuế tuyệt đối để tránh gian lận thương mại bằng cách tùy từng hãng sản xuất, năm sản xuất, chủng loại xe cụ thể mà áp một khoản tiền thuế cụ thể. Ðiều này sẽ tạo thuận lợi cho hải quan và doanh nghiệp vì xe cũ rất khó có thể định giá. Tuy nhiên, khoản áp thuế này phải được tính toán sao cho giá xe nhập khẩu chỉ chênh lệch so với xe mới cùng loại sản xuất trong nước khoảng từ 6.000 USD đến 8.000 USD thì mới khuyến khích sự lựa chọn của người tiêu dùng và tạo sự bình đẳng trong cạnh tranh đối với sản phẩm sản xuất trong nước.
Về chính sách nhập khẩu, cần khống chế số lượng xe nhập khẩu thông qua hạn ngạch, trên cơ sở cân đối nhu cầu tiêu dùng và lượng xe trong nước đã đáp ứng được. Bên cạnh đó, cần xây dựng một hệ thống tiêu chuẩn kiểm định chất lượng xe nhập khẩu hoặc tổ chức một cơ quan kiểm định, hoặc thông qua cơ quan kiểm định của nước xuất khẩu, nhằm bảo đảm chủng loại và chất lượng của xe nhập khẩu.
Về chính sách phát triển hạ tầng, cần tập trung xây dựng và hoàn chỉnh hạ tầng giao thông, đặc biệt tại những thành phố lớn, nơi có mật độ tập trung dân số cao.
Các chính sách này cần được thực hiện phối hợp một cách đồng bộ và mang lại hiệu quả cao, đáp ứng được những đòi hỏi cấp bách của thị trường ô-tô tại Việt Nam, góp phần vào quá trình hội nhập kinh tế khu vực và thế giới.