Liên kết kinh tế giữa TP Hồ Chí Minh và các tỉnh trọng điểm phía nam

Liên kết kinh tế là tất yếu trong toàn cầu hóa. TP Hồ Chí Minh và các tỉnh vùng kinh tế trọng điểm phía nam cần quán triệt nguyên lý này trong quá trình hợp tác để phát triển. Liên kết kinh tế có nhiều lợi ích, song ích lợi nhất là sử dụng nguồn tài nguyên của các bên liên kết và của cả vùng một cách hiệu quả, tăng thêm sức cạnh tranh mà một đơn vị không thể vượt qua.

Vùng Kinh tế trọng điểm phía nam (KTTÐPN) gồm các tỉnh, thành phố như: TP Hồ Chí Minh, Ðồng Nai, Bình Dương, Tây Ninh, Bà Rịa - Vũng Tàu, Bình Phước, Long An và Tiền Giang. Hiện vùng KTTÐPN là nơi tập trung số lượng các khu công nghiệp lớn của cả nước. Tại đây có khu Công nghệ cao, hai khu chế xuất Tân Thuận và Linh Trung, Công viên phần mềm Quang Trung và hàng chục khu công nghiệp khác như: Biên Hòa, Sóng Thần, Nhơn Trạch, Việt Hương, Tân Tạo... Các ngành công nghiệp quan trọng nhất của vùng gồm: dầu khí, giày da, dệt may, điện tử, cơ khí, hóa chất, phân bón, cán thép... Ngoài ra, còn có một số khu công nghiệp tập trung ở Long An (Bến Lức, Cần Giuộc, Cần Ðước, Thủ Thừa, Ðức Hòa và Tân An), Mỹ Tho (Tiền Giang).

Vùng KTTÐPN tuy có điều kiện tự nhiên, xã hội khá tương đồng, nhưng quá trình phát triển vẫn chưa phát huy hết điểm mạnh của liên kết kinh tế, do đó chưa phát huy hiệu quả nguồn tài nguyên của vùng. Từ thực tế cho thấy, những năm qua, vùng KTTÐPN có cơ hội để tiếp cận các dự án lớn, nhiều khi vượt quá khả năng sản xuất của một tỉnh, của một doanh nghiệp, nhất là các dự án phát triển công nghiệp. Nếu được liên kết lại để thực hiện dự án thì sẽ mang lại hiệu quả to lớn. Ở khía cạnh khác, trong phát triển sản xuất, kinh doanh, các tỉnh, các doanh nghiệp của vùng KTTÐPN, về cơ bản cùng khai thác một số sản phẩm giống nhau như mía đường, dệt-may, chế biến nông, lâm, thủy sản; công nghiệp lắp ráp máy móc, điện tử, phương tiện vận tải, dịch vụ cao cấp... Vì vậy, họ trở thành đối thủ cạnh tranh trên cùng một loại sản phẩm và cùng một thị trường.

Nhìn nhận về vấn đề này, nhiều địa phương, đơn vị, doanh nghiệp tuy đã biết ích lợi của liên kết kinh tế, song vẫn chưa đặt nặng việc liên kết kinh tế là một nhu cầu cần thiết và cấp bách của sự phát triển, của quá trình hội nhập và toàn cầu hóa về kinh tế. Liên kết chưa tốt giữa các tỉnh vùng KTTÐPN còn thể hiện khá rõ trong công tác quy hoạch còn mang tính địa phương, chưa rõ định hướng tổng thể trên phạm vi toàn vùng. Sự liên kết, hiệu quả phối hợp và phân công giữa các địa phương, các doanh nghiệp chưa cao cho nên chưa khai thác, phát huy hết tiềm năng của từng khu vực, còn có sự đầu tư chồng chéo, lãng phí. Việc quy hoạch phát triển Công nghiệp - Nông nghiệp - Thương mại - Dịch vụ - Du lịch của vùng phân bố chưa đồng đều, chủ yếu tập trung ở các địa phương: TP Hồ Chí Minh, Ðồng Nai, Bình Dương, Bà Rịa - Vũng Tàu.

Cơ sở kết cấu hạ tầng của một số địa phương còn khó khăn, bất cập như Tây Ninh, Bình Phước và Tiền Giang cho nên gặp khó khăn so với các tỉnh khác trong vùng về thu hút đầu tư, nhất là đầu tư trực tiếp nước ngoài cho phát triển kinh tế - xã hội. Ðội ngũ nhân lực quản lý và lao động chưa đáp ứng kịp yêu cầu phát triển, nhiều lĩnh vực còn thiếu cán bộ quản lý giỏi và lực lượng lao động lành nghề, mặc dù công tác đào tạo, dạy nghề đã được quan tâm.

Ðể thúc đẩy liên kết kinh tế giữa TP Hồ Chí Minh với các tỉnh vùng KTTÐPN, cần: Tiếp tục rà soát lại định hướng phát triển vùng, miền và có chiến lược đầu tư mũi nhọn để làm động lực cho địa phương, vùng phát triển, tránh đầu tư theo kiểu "bình quân chủ nghĩa", phân phối dàn trải như trước đây mà thiếu luận chứng kinh tế khoa học. Tăng cường sự hợp tác liên kết giữa thành phố với các tỉnh trong vùng và giữa vùng với các vùng kinh tế khác trong cả nước. Từng bước hình thành các cụm liên kết doanh nghiệp, trong đó bao gồm doanh nghiệp sản xuất, cơ sở dịch vụ công nghiệp, cơ sở đào tạo, cơ sở nghiên cứu - triển khai, cơ sở cung ứng nguyên liệu, kho bãi. Thiết kế cơ chế kết hợp và chia sẻ lợi ích giữa TP Hồ Chí Minh với các tỉnh để khuyến khích hợp tác thay vì cạnh tranh chia sẻ thị trường. Phát triển nhanh hạ tầng giao thông giữa TP Hồ Chí Minh với các tỉnh nhằm giảm chi phí vận chuyển, rút ngắn thời gian di chuyển phải được coi là một trong những ưu tiên chiến lược. Các địa phương đã có những dự án xây dựng đường cao tốc liên tỉnh cần được tập trung triển khai. Ðầu tư đầy đủ các nguồn lực cho công tác quy hoạch (và tái quy hoạch), phát triển cơ sở hạ tầng của địa phương trên cơ sở tầm nhìn toàn vùng. Tránh tình trạng cát cứ khi quy hoạch. Một việc cần tiến hành ngay là khảo sát công phu, toàn diện về lợi thế vùng, lợi thế so sánh của từng tỉnh. Trên cơ sở đó, rà soát lại các quy hoạch hiện có, điều chỉnh quy hoạch để phát huy tốt nhất các lợi thế đặc biệt của tỉnh. Trên cơ sở định hướng chung của Chính phủ về lợi thế so sánh của từng vùng và trên cơ sở lợi thế so sánh của từng tỉnh, thành phố, sau khi các địa phương đã rà soát lại quy hoạch, TP Hồ Chí Minh và các tỉnh trong vùng cần có những "Hội nghị bàn tròn" để thảo luận và đưa ra chiến lược hợp tác dài hạn trong từng lĩnh vực kinh tế, nhất là các ngành sản xuất và chế biến nông - lâm - thủy hải sản, dịch vụ cảng biển và công nghệ điện tử, dịch vụ cao cấp... mà vùng KTTÐPN có ưu thế. Lập các quỹ tài chính phục vụ các mục tiêu phát triển chung của toàn vùng. Quỹ được hình thành chủ yếu từ các nguồn đóng góp từ ngân sách của các địa phương; của các doanh nghiệp trên địa bàn; tài trợ của các tổ chức, cá nhân trong và ngoài nước; cam kết hỗ trợ của Trung ương... TP Hồ Chí Minh có công nghiệp phát triển có thể hỗ trợ các tỉnh khác trong việc xúc tiến đầu tư, thương mại, chia sẻ thông tin quản lý... Hay nhóm tỉnh phát triển hơn sẽ tập trung vào những ngành công nghiệp có hàm lượng công nghệ, giá trị gia tăng cao, sử dụng ít lao động, ít gây ô nhiễm môi trường. Nhóm tỉnh phát triển chậm hơn sẽ hướng vào những ngành khai thác lao động rẻ và tài nguyên đất đai, cơ sở hạ tầng sẵn có, nhưng đang sử dụng chưa có hiệu quả cao. Thông qua liên kết để phát triển các cụm công nghiệp giữa TP Hồ Chí Minh với Ðồng Nai - Bình Dương; Ðồng Nai - Bà Rịa - Vũng Tàu, TP Hồ Chí Minh - Long An, TP Hồ Chí Minh - Tây Ninh... Chỉ kêu gọi đầu tư nước ngoài cho các hạng mục mà các doanh nghiệp trong nước không làm được. TP Hồ Chí Minh là đầu mối trong các hoạt động của các trung tâm xúc tiến thương mại của địa phương, các ngành sẽ là cơ sở tạo ra sự liên kết tốt trong vùng. Cụ thể như cung cấp thông tin, hỗ trợ đào tạo nhân lực quản lý doanh nghiệp, hỗ trợ xây dựng và quản lý thương hiệu. TP Hồ Chí Minh liên kết với các tỉnh thực hiện kế hoạch di dời các cơ sở sản xuất gây ô nhiễm môi trường trong khu dân cư ra các khu, cụm, điểm công nghiệp trong vùng và cận vùng. Thực hiện nghiêm những quy định về quản lý môi trường trong toàn vùng. Thành phố cần có chính sách hỗ trợ một phần kinh phí để đổi mới, chuyển giao công nghệ hoặc mua thiết kế, đào tạo nhân lực. Hình thành một số trung tâm nghiên cứu và phát triển mạnh đủ khả năng cung cấp thông tin, tư vấn chuyển giao công nghệ tiên tiến cho các doanh nghiệp trong vùng. Có chính sách hỗ trợ tài chính để tạo lập và phát triển thị trường công nghệ, sản xuất sản phẩm công nghệ cao, sản phẩm chế thử lần đầu từ các kết quả nghiên cứu. Các tỉnh trong vùng có kế hoạch dành một phần ngân sách địa phương hằng năm để hỗ trợ cho các hoạt động khoa học công nghệ, nghiên cứu triển khai áp dụng công nghệ mới, các chương trình, đề tài nghiên cứu khoa học, áp dụng các giải pháp hữu ích... TP Hồ Chí Minh và các tỉnh trong vùng cần có chính sách thu hút cán bộ quản lý giỏi, các chuyên gia khoa học kỹ thuật đầu đàn, công nhân có tay nghề cao như ưu đãi về nhà ở, phương tiện đi lại, phương tiện làm việc, phụ cấp lương... Các doanh nghiệp trong vùng cần xây dựng chiến lược kinh doanh dài hạn từ năm đến mười năm để soát xét và đánh giá lại toàn diện những mặt mạnh, mặt yếu trong hoạt động kinh doanh, dự báo khả năng cạnh tranh và phát triển; trên cơ sở đó, xác định lại thị trường mục tiêu và thị trường tiềm năng mà doanh nghiệp hướng tới; từ đó chủ động trong tìm kiếm đối tác liên kết kinh tế, chọn nội dung và hình thức liên kết phù hợp. Tiếp tục nâng cao trình độ công nghệ để có thể chuyên môn hóa sâu, từ đó nảy sinh nhu cầu tham gia và mở rộng các mối quan hệ liên kết kinh tế. Tuyên truyền và nâng cao nhận thức về hiệu quả của liên kết kinh tế cho cán bộ, công nhân viên trong doanh nghiệp.

Có thể bạn quan tâm