Quyết định chinh phục đỉnh Phan-xi-păng hoàn toàn ngẫu hứng. Để trải nghiệm và tận hưởng hết vẻ đẹp của hành trình, chúng tôi chọn xe máy làm phương tiện di chuyển. Dân chuyên nghiệp gọi là “đi phượt”.
Xuất phát lúc 7 giờ sáng, trong tiết trời Thủ đô se lạnh, trời trong, không nắng. Từ Hà Nội, lên Vĩnh Phúc, qua Phú Thọ, Yên Bái, đích đến là Lào Cai. Hai bên đường, mùa này lác đác những chùm hoa dại nở, những đám bèo tím ngát, cánh đồng rau vụ đông xanh mướt, khiến chặng đường bớt xa vời và thêm thơ mộng. Cứ chừng 50-60 km, chúng tôi ghé vào các quán nước nhỏ ven đường; thưởng thức những món quà quê đặc trưng của từng vùng; gặp những nụ cười thân thiện của người dân mến khách.
Từ Phú Thọ lên Yên Bái, hút tầm mắt là bạt ngàn đồi chè, rừng cọ lấp loáng dưới cái nắng hanh hao. Con đường uốn lượn men theo chân núi, dẫn đến con sông Chảy. Cảnh sắc lung linh với một bên núi, một bên sông. Thị trấn phố Ràng, cửa ngõ phía nam tỉnh Lào Cai, hiện ra trong chạng vạng chiều. Chọn điểm dừng chân, chúng tôi nghe anh chủ quán khẳng định chắc nịch: “Còn 76 “cây” nữa là đến TP Lào Cai”. Nhẩm tính, quãng đường đi được đã gần 300 km. Trời đã tối hẳn. Cung đường tiếp theo toàn là dốc núi thăm thẳm, quanh co, nhưng dễ dàng hơn cho các “bác tài” vì đi trong đêm, ánh đèn luôn báo hiệu cho biết có xe phía trước, nhưng thỉnh thoảng cũng làm chúng tôi chột dạ vì quá vắng vẻ. Thành phố núi chào đón chúng tôi khi trăng đã lên đỉnh đầu. Chọn khách sạn nhỏ trên con phố nhìn ra ngã ba sông Hồng và sông Nậm Thi, chúng tôi quyết định nghỉ lại Lào Cai một đêm trước khi bước vào hành trình chinh phục đỉnh “Phan”.
Sa Pa mùa này chưa quá lạnh nhưng đủ làm ai nấy co ro trong hai lớp áo. Lạ là đã có hoa đào rải rác nở dọc đường. Gem art gallery là ngôi nhà gỗ của một anh hoạ sỹ- người sẵn sàng bỏ phố lên núi lập nghiệp, được chọn làm điểm lưu lại mấy ngày ở Sa Pa. Ngôi nhà có vị trí đẹp ở đầu đoạn dốc xuống bản Cát Cát, có tầm nhìn hướng thẳng lên đỉnh Phan-xi-păng và dãy núi Hoàng Liên. 9 giờ sáng, chúng tôi trang phục nai nịt gọn gàng với giày cao cổ, tất chống vắt, bọc cổ chân, găng tay leo núi…Đúng hẹn, Má A Sàng, “gai” (guide- hướng dẫn viên) du lịch ngưòi dân tộc Mông đến đón. Sàng năm nay 25 tuổi, nhanh nhẹn và hoạt bát, sõi tiếng Kinh, nói được tiếng Anh, tiếng Pháp theo kiểu “đại bồi”. Đi cùng Sàng là bốn pót-tơ bản xứ (porter- người khuân vác), mặc nguyên trang phục người Mông, quần ống rộng, chân đi dép nhựa. Tôi ngạc nhiên: “Các anh không sợ vắt à?”
- Đường này làm gì có vắt.
Nghe vậy, thêm yên tâm phần nào.
Trong các nhóm lữ hành, pót-tơ là người làm công việc đơn thuần là khuân vác và nấu ăn cho cả đoàn trong suốt hành trình. Người Mông có tính tự trọng cao, không thích bị gọi theo kiểu miệt thị, hay coi là phục vụ, nên người làm du lịch thường gọi họ là pót-tơ. Hầu hết họ không thạo tiếng Kinh, do vậy khách du lịch phải cố gắng để hai bên hiểu nhau, nếu phạm sai lầm trong giao tiếp làm họ phật ý, bỏ về, thì coi như hành trình thất bại, bởi không có pót-tơ sẽ không thể leo núi.
Leo Phan (người Sa Pa vẫn gọi hành trình leo núi Phan - xi- păng theo cách đơn giản như thế) có ba đường: đi Cát Cát-về Cát Cát. Đường này dài nhất nhưng đẹp nhất, đi mất bốn ngày, ba đêm; đi Sín Chải về lán Việt Hùng có thể đi, về trong ngày nhưng đòi hỏi sức khoẻ cực tốt, nhiều đoạn phải đu dây, bắc cầu qua suối, mà theo Má A Sàng, khách muốn đi kiểu này phải đặt tiền trước một tháng; đường thứ ba, cũng là con đường chúng tôi lựa chọn, phổ biến nhất, đi Trạm Tôn- về Trạm Tôn, cả đi, về khoảng 30 cây số, mất hai ngày, một đêm.
Đoàn rời Sa Pa theo hướng Thác Bạc lên Trạm Tôn, ở độ cao 1.800 m so với mặt nước biển, nơi đón tiếp khách leo Phan, cách Sa Pa chừng 12 km. Chúng tôi tiến vào rừng khi trời bắt đầu mưa. Sàng bảo, “leo Phan” là thế, không thể biết trước được mưa hay nắng. Trong tám năm làm pót-tơ và “gai” loại hình thời tiết nào em cũng đã trải, mưa, nắng, băng tuyết, cả mưa đá nữa…Sàng là người hay chuyện, có kinh nghiệm đi rừng, nên hành trình bớt phần mệt nhọc. Sàng kể, có lần dẫn đoàn khách “tây”, gặp con rắn độc, Sàng lăm lăm cây gập, khách ra sức ngăn lại, nhưng khi Sàng đập chết, bạnh hàm răng của rắn ra, họ sợ quá, gật đầu lia lịa: “Đập chết là đúng rồi”. Rồi Sàng cho chúng tôi xem viên thuốc chữa rắn cắn, làm từ lá cây rừng, trông ngon mắt như viên kẹo sô-cô-la sữa. Đó là vật không thể thiếu khi dẫn khách đi rừng…
Trèo lên, lội xuống được gần hai tiếng đồng hồ, chân tôi như đã chùng xuống, vậy mà Sàng cứ nhảy choanh choách. “Chưa ăn nhằm gì với thằng xã bên, giải nhất leo Phan với một tiếng rưỡi lên tới đỉnh (!!) Ôi trời, không hiểu nó là người hay là ma nữa”- Sàng tỏ vẻ thán phục, nhưng nghe Sàng nói, trong tháng 10, Sàng leo Phan 22 lần, thu nhập hơn 8 triệu đồng. Tôi đùa: “Chị cũng không hiểu em là người hay là ma nữa”…
Càng vào sâu, lên cao, mưa càng nặng hạt. Chúng tôi đi trong ào ạt đại ngàn. Lúc này mới thấy giá trị cái áo mưa giá 5.000 đồng mua ở chợ Sa Pa . Mưa làm bùn đất, lá cây mục nhão nhoét quện đế giày như muốn giữ từng bước chân. Đoạn đường đầu, mọi người còn thích thú ngắm nghía, trầm trồ vẻ kỳ vĩ của thiên nhiên khi bắt gặp những tảng rêu khổng lồ, xanh mượt như nhung; những thân cây mấy người ôm, phủ màu vàng óng của lá cây dây leo, những mảng rễ cây rừng đan chằng chịt, những con suối trong leo lẻo luồn lách dưới tán rừng cổ thụ …tầm quá 11 giờ trưa, cả đội đã thấm mệt, câu chuyện thưa thớt, tiếng cười nói cũng bớt dần.
Bốn pót-tơ vẫn bước thoăn thoắt, trên vai mỗi người gùi đến hơn 40 kg thức ăn, nước uống, túi ngủ, đồ dùng cho sáu người chúng tôi. Nguyên tắc “bất dịch” khi leo Phan là pót-tơ của đoàn nào lo cho đoàn ấy, không chia sẻ thức ăn, nước uống cho bất kỳ người nào khác đoàn vì số lượng họ tính toán vừa đủ cho chặng đi, không thể mang thêm bất cứ thứ gì, ngay cả túi ngủ của chính họ. Trong lúc chúng tôi ì ạch leo từng bậc dốc chênh vênh, trơn tuột, đội pót-tơ đã đến điểm nghỉ ở độ cao 2.200 m chuẩn bị bữa trưa, sẵn sàng đợi cả nhóm.
12 giờ trưa, điểm nghỉ là một “túp lều chăn vịt” giữa rừng, dựng tạm bợ từ cây que và che vải bạt , rộng chừng hơn 20 m2, lấm lem và ẩm ướt, đủ cho hai chục khách cả “tây” lẫn ta trú ngụ ít phút. Trong thử thách và mệt nhọc, tình người xích lại gần nhau hơn, không khoảng cách địa lý, ngôn ngữ. Chúng tôi chia sẻ cảm giác “thở qua đằng tai” và những mẩu lương khô ăn tạm. Bữa trưa nóng hổi diễn ra chóng vánh nhưng đủ làm ấm người trong tiết trời lạnh buốt.
Thời tiết ngày càng xấu hơn, sương phủ dày đặc. Chặng đường từ độ cao 2.200 đến 2.800 m là quãng đường thử thách tính kiên nhẫn, ý chí và sức lực con người. Những vách đá dựng đứng, cheo leo luôn hiện ra trước mặt. Chỉ độc đạo, không có sự lựa chọn nào khác cho hành trình tiến lên phía trước. Một tính toán sai lầm có thể mất mạng trong tích tắc. Đã ngấm mệt, nên chỉ đi khoảng 5 phút, chúng tôi phải dừng lại … thở dốc. Dù trời mưa, độ ẩm cao nhưng môi ai cũng khô nứt nẻ vì thở bằng mồm. Càng lên cao, không khí loãng, khiến tôi cảm thấy tức thở, hụt hơi, chân như muốn khuỵu xuống, đến cái gậy cầm theo cũng đành vứt lại dọc đường. Có chuông điện thoại nhưng chẳng muốn lấy ra nghe nữa…
Đến một quãng trống, chúng tôi dừng lại nghỉ vài giây, ngẩng lên, thì chao ôi, bạt ngàn rừng già hàng ngàn năm tuổi đã biến mất, chỉ những thân cổ thụ cháy sém, đen trũi trơ ra giữa trời, kéo dài hàng cây số. Hậu quả đau xót từ sự vô ý thức của con người gây nên vụ cháy rừng cách đây hai năm. Bạt ngàn rừng già với hàng trăm loại gỗ và dược liệu quý, nay chỉ còn mênh mang núi với những loại cây lúp xúp đầu người, mới mọc trở lại… Má A Sàng là người sinh ra ở núi, lớn lên với rừng, lại hay dẫn khách nước ngoài, nên rất có ý thức bảo vệ môi trường sinh thái rừng, luôn nhắc nhở mọi người vứt rác đúng nơi quy định, nếu không có sọt rác, Sàng lượm những vỏ giấy kẹo bỏ vào ba-lô .
Bữa tối ở điểm cao 2.800 m trong le lói ánh sáng từ cái đèn pin . Mấy chén rượu Mông làm ấm giọng. Chuyện của anh Má A Cáng, 46 tuổi, pót-tơ già nhất đội, cũng là thày cúng ở bản Cát Cát cho chúng tôi hiểu thêm về tục cúng ma, tục “kéo vợ”, tang ma… Ở bản người Mông, cúng ma là một trong những tục không thể thiếu trong đời sống hàng ngày. Họ quan niệm, nếu bị ma bắt mất vía thì cả người và vật sinh ra đau ốm, dần dần mà chết. Vì thế, gia chủ bắt buộc phải làm lễ cúng ma cầu mong tai qua, nạn khỏi.… Nếu thày cúng qua đời, mỗi hộ trong bản mang đến viếng bằng một con lợn. Làm đám tang xong, tất cả số lợn có khi lên tới cả trăm con được mang ra thịt hết, rồi chia cho mỗi nhà một phần mang về. Có những hủ tục của người Mông, nay đã gần như được xoá bỏ như người chết không đặt vào quan tài mà để nằm trên cáng cả tuần mới mang đi chôn… Phần lớn người Mông kết hôn từ rất sớm và sinh nhiều con. Các chàng trai Mông vừa đến tuổi trưởng thành đã nhòm ngó các cô gái để “kéo” về làm vợ. Gia đình anh Cáng là một trong số rất ít hộ chỉ có hai con. Ngoài trồng thảo quả, làm nương rẫy, lúc rảnh, anh Cáng lại đi làm pót-tơ kiếm thêm 150-200 nghìn đồng/ngày, phụ vợ nuôi con….
Giấc ngủ đêm trên núi thật khó khăn trong cái lạnh thấu xương, dù đã dán vào người hai miếng cao giữ nhiệt. Khách du lịch được ngủ trong lều tôn, còn pót-tơ phải ngủ bên bếp lửa vì họ hầu như không có bất cứ thứ gì ủ ấm trong khi nhiệt độ ngoài trời xuống dưới 10 độ C.
6 giờ sáng hôm sau, khó có thể tả được cảm giác vừa chui khỏi cái túi ngủ ấm phải xỏ chân vào những đôi tất, giày ướt bẩn. Cái ớn lạnh làm toàn thân tê tái. Bốn người đàn ông Xcốt-len thấy thời tiết quá khắc nghiệt nên đã bỏ cuộc. Chúng tôi vẫn tiếp tục, cùng hai vợ chồng du khách người Pháp và đôi bạn từ TP Hồ Chí Minh. Ở độ cao này, hầu hết lối đi chỉ rộng hơn gang tay, hai bên um tùm tre trúc. Cả đoàn nhích từng đoạn, từng đoạn…gió lồng lộng như muốn đẩy lùi bước tiến của chúng tôi. Khoảng ba tiếng đồng hồ như vậy, khi gần như không còn chút sức nào thì nghe giọng người phụ nữ Pháp reo lên: Đến nơi rồi. Cả bọn như bừng tỉnh. Khối kim loại hình tháp ghi dòng chữ FANSIPAN 3.143 m hiện ra trong ngất ngây sung sướng của tất cả mọi người. Không gian chung quanh là một biển mây mù dày đặc, che hết tầm nhìn. Lấy cờ Tổ quốc, tờ báo thân yêu, máy ảnh, chúng tôi tranh thủ ghi lại khoảng khắc đáng nhớ. Sương chui vào ống kính làm độ bắt nét cực kém, nhưng ai nấy không mấy bận tâm. Cái cảm giác vượt qua chính mình đã vượt hơn tất cả.
“Niềm vui ngắn chẳng tày gang”, nghĩ đến đoạn đường về tôi sởn da gà, nhưng Má A Sàng liên tục nhắc, phải đi nhanh, kẻo không ra khỏi rừng khi trời còn sáng. Chỉ nghĩ đến việc phải mò mẫm trong đêm tối giữa rừng già với bao hiểm nguy rình rập, tôi đã sợ…mất vía rồi. Và cứ thế, tôi lê từng bước ngắn, đều, chậm, hầu như không dám nghỉ, vì mỗi khi dừng lại, hai chân run lập cập, không muốn bước tiếp nữa. Bàn chân liên tục bị ngập trong bùn và nước lạnh đã sưng tấy, tê dại. Xuống đến độ cao 2.000m, trời quang hẳn, từ đây có thể bao quát không gian rộng lớn từ Thác Bạc tới thị trấn Sa Pa. Kiên nhẫn và quyết tâm, chúng tôi đã ra khỏi rừng trước 6 giờ tối. Nhìn thấy cái cổng chào ở Trạm Tôn và dòng chữ “Hẹn gặp lại”, cảm giác vỡ oà như khi nhìn thấy tháp kim loại trên đỉnh Phan-xi-păng.
Ngày thứ tư, cũng là ngày kết thúc hành trình,trở về Hà Nội. Không đi lại cung đường cũ, chúng tôi chọn đường qua đèo Ô Quy Hồ, sang Lai Châu, xa thêm gần trăm cây số nhưng bù lại sẽ được chiêm ngưỡng vẻ đẹp hoành tráng mà tạo hoá ban tặng vùng sơn địa này. Anh hoạ sỹ khuyên nên đi trước 6 giờ sáng để đón được ánh nắng rọi vào vách núi. Hơn 40 km từ Sa Pa sang Bình Lư, chúng tôi được “mãn nhãn” trước cảnh sắc hũng vĩ của điệp trùng núi rừng Tây Bắc. Núi cao vút, vực thẳm sâu. Bóng núi chồng lên núi. Đường chúng tôi đi qua Tam Đường, Tân Uyên, Than uyên, Mù cang Chải…Hàng trăm km đường là hàng trăm cung bậc màu sắc, âm thanh của núi rừng, sông suối, ruộng bậc thang, nhà sàn, váy áo… của đồng bào các dân tộc vùng cao Tây Bắc.
Khi công-tơ-mét chỉ con số 440, tính từ Cát Cát, là lúc chúng tôi về đến gần trung tâm Hà Nội, thời gian đã bước sang ngày mới. Chúng tôi kết thúc hành trình với nhiều cảm xúc sẽ khó lặp lại trong đời và một bài học thú vị, đó là, rào cản lớn nhất chính là bản thân, nếu vượt qua chính mình, có thể, bạn sẽ làm được những việc tưởng chừng không thể.