Trong lịch sử hàng ngàn năm dựng nước và giữ nước của dân tộc Việt Nam, làng đóng một vai trò rất quan trọng. Không chỉ là một thành lũy chống lại sự đồng hóa của ngoại bang mà làng còn là nơi sản sinh ra những người mẹ vĩ đại; những người mẹ lại sinh ra biết bao những người con anh dũng, xông pha trận mạc để bảo vệ và gìn giữ sự tồn vong mãi mãi của non sông gấm vóc Việt Nam.
Làng Thái Phúc xa xưa và xã Thái Phúc, huyện Thái Thụy (Thái Bình) ngày nay là một làng quê như vậy. Làng được Nhà nước phong tặng danh hiệu Anh hùng lực lượng VTND năm 1999 và điều đặc biệt là Thái Phúc được lòng dân ghi tạc, gọi bằng cái tên trìu mến: "Làng mẹ Anh hùng", bởi nơi đây có tới 21 bà mẹ được Nhà nước tôn vinh là Bà mẹ Việt Nam Anh hùng. Tỉnh Thái Bình có 2.109 Bà mẹ Việt Nam Anh hùng thì Thái Phúc là xã có số Bà mẹ Việt Nam Anh hùng nhiều nhất huyện, nhất tỉnh; không chỉ nhiều nhất về số lượng mà còn có nhiều cái độc nhất đầy chất bi hùng ca.
Trong 21 Bà mẹ Việt Nam Anh hùng ở Thái Phúc thì có đến 19 bà mẹ có con độc nhất hy sinh. Những bà mẹ có con độc nhất hy sinh, nước mắt chẳng gì có thể đong đầy. Nhưng than ôi, lại có những bà mẹ mà nỗi đau cứ nhân lên mãi. Mẹ Tăng Thị Huấn và mẹ Nguyễn Thị Mận (còn gọi là mẹ Món), mỗi mẹ có ba người con thì cả ba người đều hy sinh anh dũng. Còn mẹ Phạm Thị Nhớn vừa có chồng là liệt sĩ Hà Ðồng Như lại vừa có con duy nhất là liệt sĩ Hà Ðồng Nam. Chồng mẹ Phạm Thị Nhớn là du kích, tham gia chiến đấu trận đầu tiên quân Pháp đánh vào Thái Phúc, ông hy sinh ngay tại lũy tre làng, khi đó con trai Hà Ðồng Nam của mẹ mới được ba tháng tuổi. Một mình mẹ Nhớn nuôi con, học xong cấp 2 thì Hà Ðồng Nam tình nguyện đi bộ đội bằng một lá đơn viết bằng máu. Anh tham gia biệt động thành Sài Gòn, lấy vợ là chị Ðoàn Thị Dung cũng là biệt động thành, năm 1974, vợ chồng anh sinh được một con gái Hà Thị Dung, những tưởng hạnh phúc là mãi mãi nhưng trong một lần đánh chặn tàu địch trên sông Sài Gòn, anh đã anh dũng hy sinh.
Thật hiếm hoi nhưng cũng đầy chất anh hùng ca mà chỉ ở những làng quê anh hùng trên dải đất Việt Nam anh hùng mới có; trong cùng một ngõ nhỏ ở Thái Phúc, cách nhau vài chục bước chân có hai Bà mẹ Việt Nam Anh hùng, mẹ Phạm Thị Ban và mẹ Hoàng Thị Bập. Mẹ Phạm Thị Ban sinh năm 1920, mất năm 1999; con trai mẹ Ban là Hoàng Văn Quán, sinh 1950, năm 16 tuổi, đang học lớp 5, anh cùng với người em con chú ruột là Hoàng Văn Thập đã chích máu đầu ngón tay viết đơn tình nguyện đi bộ đội rồi mang ra xã đội nộp và lá đơn viết bằng máu ấy đã làm rơi lệ bao người, để rồi hai anh em trở thành người lính vào Nam chiến đấu sau khi đã được huấn luyện tại Hòa Bình.
Năm 1968, cả hai anh em đã anh dũng ngã xuống tại chiến trường miền Ðông Nam Bộ khi tuổi xuân tròn 18. Còn mẹ Hoàng Thị Bập vẫn còn sống, năm nay mẹ đã 89 nhưng còn khỏe mạnh và minh mẫn. Mẹ Bập sống một mình trong ngôi nhà tình nghĩa, được xã xây từ năm 1995, đó là một ngôi nhà ngói ba gian, hằng ngày mẹ tự đi chợ mua thức ăn, tự nấu nướng.
Mẹ Bập kể với tôi và Chủ tịch xã Quách Thị Hạnh về cuộc sống xưa kia của mẹ, một cuộc sống cơ cực đầy nước mắt, chồng mẹ bị Tây bắn chết năm 1950, một mình mẹ nuôi con, ban ngày đi làm ruộng, ban đêm tranh thủ gánh đất làm nền nhà, vì phải đi lang thang nhiều nơi nên phải làm nhà tới bốn lần. Kể về người con trai yêu quý của mình, mẹ Bập rơm rớm nước mắt nhớ lại cuộc trò chuyện cuối cùng của hai mẹ con, mẹ nói với con trai Trịnh Ðình Bất:
- Bố con chết, mẹ thắt lưng buộc bụng nuôi con, con cố mà ăn học.
Con trai đáp lại lời mẹ:
- Con biết mẹ nuôi con gian khổ nhưng mẹ cho phép con đi bộ đội, con sẽ biên thư về cho mẹ, con sẽ trở về nuôi mẹ
Trước sự năn nỉ của người con, mẹ Bập đành gạt nước mắt tiễn người con duy nhất lên đường ở cái tuổi 17 và anh đã mãi mãi ra đi vì dân vì nước, bỏ quên cả lời hứa trở về nuôi mẹ. Khi mẹ Bập ngưng lời, tôi thấy Chủ tịch xã Quách Thị Hạnh đang châm chấm nước mắt; có thể chị khóc vì đồng cảm giữa người mẹ với người mẹ và cũng có thể chị khóc vì sự đồng cảm giữa người lính với người lính vì chị cũng từng là một người lính chiến đấu bên đất bạn Lào ở trung đoàn 592, đoàn 559 Cục Xăng dầu.
Bây giờ cuộc sống của mẹ Bập đã hết cơ cực. Tuy sống một mình nhưng mẹ Bập không cô đơn, có các đoàn thể trong xã, có bà con lối xóm thường xuyên đến thăm. Hằng tháng mẹ nhận được 1,4 triệu tiền trợ cấp của Nhà nước và 250 nghìn đồng phụng dưỡng của Văn phòng Quốc hội; không những phụng dưỡng hằng tháng mà Văn phòng Quốc hội còn tặng mẹ một chiếc máy thu hình, xây công trình vệ sinh khép kín cho mẹ.
Chiêm nghiệm ra một sự thật rằng, những bà mẹ Việt Nam thời chiến tranh, nhất là những bà mẹ ở các làng quê, gần như đã hy sinh cả cuộc đời cho chồng cho con. Hàng vạn, hàng vạn người con gái tuổi đời, tuổi yêu còn đang căng tràn sức sống nhưng cưới chồng, chưa kịp quen hơi chồng đã tiễn chồng ra trận để rồi vò võ một mình chăn đơn, gối chiếc; ai may mắn còn được gặp lại chồng sau chiến tranh cho dù tuổi xuân đã hết; ai không may đành trở thành góa bụa. Nhiều khi cả một đời gian khổ, đến lúc cuối đời được hưởng một chút sung sướng, vinh quang thì tuổi già lại cướp đi.
21 Bà mẹ Việt Nam Anh hùng ở Thái Phúc thì 19 mẹ đã về cõi vĩnh hằng, chỉ còn có hai mẹ còn sống là mẹ Bập và mẹ Nguyễn Thị Hoa. Mẹ Hoa năm nay 88 tuổi, mẹ có khuôn mặt phúc hậu và đẹp lão; thời thiếu nữ, mẹ là cô gái xinh đẹp nổi tiếng, thế nhưng vì gia đình quá nghèo lại thất tán nên mãi đến năm 27 tuổi mẹ mới lấy chồng là ông Phạm Hữu Sở làm du kích xã.
Năm 1950, mẹ sinh con trai Phạm Hữu Ngọc; năm 1968, tròn 18 tuổi, anh ra trận. Mẹ Hoa kể rằng hồi con trai của mẹ còn nhỏ, vì đói kém nên gia đình phải đèo bòng nhau ra Quảng Ninh kiếm sống, nhọc nhằn hôm sớm mà đói vẫn hoàn đói, vợ chồng con cái lại dắt díu về quê, về đến bến Bính (Hải Phòng) thì con bị lạc, tìm kiếm mãi chẳng thấy, tưởng đã mất con nhưng may mắn sao con trai mẹ được một gia đình tốt bụng nuôi, rồi báo tin cho gia đình ra đón. Nỗi sợ hãi mất con luôn luôn ám ảnh mẹ Hoa, mẹ trông chừng con từng li từng tí cho đến ngày 26-1-1970 anh đi bộ đội, và lần này, mẹ không được gặp con nữa, anh hy sinh tại chiến trường Quảng Ngãi.
Tổ quốc đã ôm anh vào lòng, 38 năm qua, mẹ Hoa le lói một tia hy vọng, vận may một lần nữa trở lại với mẹ, một gia đình người dân tốt bụng nào đó biết được mộ con trai mẹ, báo cho mẹ biết để mẹ nhờ chính quyền, người thân đưa con về với mẹ nhưng giờ mẹ như ngọn đèn trước gió mà mộ con vẫn không biết nơi đâu?
Dòng họ Quách có năm Bà mẹ Việt Nam Anh hùng và 31 người đã hy sinh trong hai cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp, chống đế quốc Mỹ, trong cuộc chiến đấu bảo vệ biên giới và làm nhiệm vụ quốc tế. Trong năm Bà mẹ Việt Nam Anh hùng của họ Quách, có bốn mẹ là con gái, một mẹ là con dâu, ba mẹ ở Thái Phúc và hai mẹ làm dâu xứ người. Mẹ Quách Thị Ngưu (1894- 1979) có bốn con trai và một cháu hy sinh. Mẹ Tăng Thị Huấn (1902-1987) có ba con trai hy sinh. Các mẹ Quách Thị Tỵ, Quách Thị Can, Quách Thị Ðen đều có con trai độc nhất hy sinh.
Không chỉ thời nay mà ngay cả thời xa xưa, dòng họ Quách cũng đã có một bản hùng ca đầy bi thương trong sự nghiệp chống quân Minh. Theo gia phả họ Quách thì vào khoảng những năm (1418-1427), gia đình cụ Quách Tự Ngu có 10 người con tham gia đội quân của tướng Lê Hựu chống giặc Minh thì có tới chín người con đã hy sinh. Ngay cả đến con chó tinh khôn của dòng họ Quách cũng có công trong việc đánh giặc Minh; hằng ngày con chó này được cụ Quách Tự Ngu cho ra nằm ở bến Thuyền Quan, mỗi khi giặc Minh kéo sang, con chó chạy về sủa báo hiệu thế là cụ Ngu đem quân bố trí đánh giặc và báo cho dân làng chạy trốn. Chao ôi, cái làng quê Việt Nam nhỏ bé và khiêm nhường, từ những bà mẹ lam lũ, hiền từ cũng trở thành vĩ đại; từ những người nông dân chất phác chỉ quen với cuốc với cày cũng có thể trở thành người lính Anh hùng; từ những cây tre vô tri vô giác cũng có thể biến thành gậy, thành chông, thành cung tên để giết giặc.
Và từ xưa ngẫm về nay, từ hiện tại nhìn về tương lai, thấy rằng không một lý gì, không một cản trở nào có thể ngáng bước một dân tộc anh hùng, với một nhân dân thông minh, cần cù đi tới cái đích "Dân giàu, nước mạnh", sánh vai với các nước đang phát triển trong khu vực và trên thế giới!
Ðể tạc ghi công lao to lớn, sự hy sinh cao quý của các bà mẹ, của các liệt sĩ dòng họ Quách, dòng họ đã đưa vào thờ tại từ đường các Bà mẹ Việt Nam Anh hùng và 31 liệt sĩ của dòng họ. Không những thờ phụng các mẹ, các liệt sĩ mà ông Quách Ngọc Thuấn, 73 tuổi, một giáo viên nghỉ hưu cùng nhiều người trong họ đã thành tâm sáng tác bài "Lễ văn chiêu hồn liệt sĩ"; bài văn chiêu hồn do ông Thuấn chắp bút gồm 108 câu, chia thành 26 nhịp theo thể song thất lục bát.
Tôi hỏi ông Thuấn:
- Ðiều gì đã khiến ông chắp bút ra bài văn chiêu hồn này?
Không cần phải nghĩ suy, ông Thuấn đáp ngay:
- Ðảng và Nhà nước đã tôn vinh, ghi công các mẹ, các liệt sĩ của dòng họ thì cớ sao con cháu trong họ lại không có cách thể hiện lòng biết ơn đến các mẹ, các liệt sĩ! Và điều quan trọng nữa là chúng tôi muốn qua đây để giáo dục cho con cháu trong họ biết tự hào và phát huy truyền thống vẻ vang của dòng họ.
Ông Thuấn vừa lật lật bài văn tế chiêu hồn vừa nói rằng, hằng năm đúng vào ngày Thương binh - liệt sĩ 27-7, con cháu họ Quách đều tổ chức lễ chiêu hồn cho các Bà mẹ Việt Nam Anh hùng và cho các liệt sĩ của dòng họ, trong phần tế lễ có cả phần đọc bài văn tế. Tôi đề nghị ông Thuấn đọc cho một đoạn về Bà mẹ Việt Nam Anh hùng, ông Thuấn chỉnh lại tư thế ngồi ngay ngắn, cất giọng hào sảng:
Trăng viên mãn anh hùng bất khuất
Rạng vầng dương - trung hậu đảm đang
Vinh gia tộc, đẹp xóm làng
Non sông đất nước bia vàng tôn vinh!...
Ông Thuấn bảo rằng, khi đọc văn chiêu hồn tại từ đường, đọc xong một nhịp thì thỉnh một tiếng chuông; tiếng chuông ngân lên, ngắt nhịp bài văn làm cho buổi lễ thêm thiêng liêng, lòng người thêm sâu lắng. Ông Thuấn còn chiêm nghiệm thấy rằng các liệt sĩ tuy đã ngã xuốngnhưng rất linh thiêng và luôn luôn phù hộ cho gia đình, dòng họ, quê hương, Tổ quốc được trường tồn, phát triển. Năm ngoái, ông Thuấn đi lấy tư liệu về các liệt sĩ của dòng họ để viết vào gia phả, khi đến nhà của liệt sĩ Quách Ðình Rụng, gặp vợ liệt sĩ, ông hỏi năm hy sinh của chồng bà nhưng bà không nhớ, ông Thuấn đành ra về để mai tìm gặp con đẻ của liệt sĩ Rụng hỏi thì ngay đêm đó liệt sĩ Rụng về báo mộng cho ông Thuấn biết năm hy sinh của mình là năm 1972. Sáng hôm sau, ông Thuấn tìm gặp con của liệt sĩ Rụng hỏi thì quả đúng là liệt sĩ Quách Ðình Rụng hy sinh năm 1972!
Xế chiều, tôi dời nhà ông Quách Ngọc Thuấn trở về Ban Thương binh xã trong cái nắng vàng rực rỡ. Tại đây tôi được biết thêm một con số còn đau đáu âm ỉ trong lòng người còn sống, ấy là trong 21 Bà mẹ Việt Nam Anh hùng ở Thái Phúc thì có tới 16 bà mẹ chưa tìm thấy mộ con, trong đó mẹ Nguyễn Thị Mận có ba con hy sinh thì cả ba chưa tìm thấy mộ; mẹ Tăng Thị Huấn có ba con hy sinh thì mới chỉ tìm thấy mộ của một con Quách Ðình Kiểu.
Nhìn rộng ra, cả Thái Phúc có 425 liệt sĩ thì cũng chỉ có 100 liệt sĩ đã tìm thấy mộ, còn 280 liệt sĩ chưa tìm thấy mộ và 45 liệt sĩ tuy đã tìm thấy mộ và đưa về nghĩa trang Thái Phúc nhưng không biết danh tính liệt sĩ. Hai Bà mẹ Việt Nam Anh hùng còn sống và hàng trăm thân nhân liệt sĩ ở Thái Phúc vẫn đang ngày đêm mong ngóng tìm thấy mộ chồng, mộ con, mộ cháu.
Vậy đồng đội các liệt sĩ hay người dân Việt Nam nào đang sinh sống trên mọi miền Tổ quốc, trên đất bạn Lào, Cam-pu-chia hoặc ở một quốc gia nào đó nếu biết được tin tức mộ chí của các liệt sĩ sinh ra trên mảnh đất Thái Phúc Anh hùng - làng quê của 21 Bà mẹ Việt Nam Anh hùng thì hãy báo tin về UBND, Ban Thương binh xã Thái Phúc để các liệt sĩ được về lại quê hương yêu dấu!