Làng chiếu Lật Dương - Bút ký của Cao Năm

ND - Ở xã Quang Phục, huyện Tiên Lãng, ngoại thành Hải Phòng, ngoài Lật Dương còn có Lật Khê, Chính Nghị và Lêu vốn có nghề dệt chiếu cói. Nhưng bây giờ thì chỉ còn Lật Dương duy trì nghề truyền thống này. 

Trước năm 1990, huyện Tiên Lãng cùng với huyện Vĩnh Bảo kề bên là vùng cói lớn không những của thành phố Hải Phòng mà còn của cả miền duyên hải Bắc Bộ. Chỉ kể hai cơ sở chuyên canh là nông trường Vinh Quang (Tiên Lãng) và nông trường Trấn Dương (Vĩnh Bảo) đã có gần 2.000 ha. Cũng trên địa bàn hai huyện còn có hai xí nghiệp chế biến cói, trang bị khá hiện đại, mỗi năm sản xuất hàng vạn sản phẩm từ cói như chiếu, thảm, bao manh, làn, bị cói... thu hút hàng nghìn lao động. Ðã một thời, bao manh cói, làn, bị cói được coi là "mốt" đóng gói hàng vận chuyển xa và đồ xách tay tiện lợi của các bà, các chị nội trợ. Còn chiếu cói thì khỏi nói, có nhà nào lại không mỗi năm mua một, hai đôi về trải giường, nhất là khi Tết đến muốn có chiếc chiếu hoa. Còn bây giờ, hàng ni-lông xâm nhập vào tất cả, từ chiếc làn đi chợ, túi đựng đồ đến bao bì đóng hàng, và dĩ nhiên không loại trừ cả chiếc chiếu trải giường làm bằng ni-lông bày bán đầy dãy ở các siêu thị. Vậy thì cói và nghề dệt chiếu cói ra sao?

Làng Lật Dương có hơn 200 hộ chuyên nghề dệt chiếu, nhiều hộ có hai, ba go dệt, nhiều nữa, đến mức gần như thành một xưởng dệt có tới hàng chục go, thuê vài chục người làm, như nhà chị Phạm Thị Nghĩa chẳng hạn. Số go dệt nhiều, số người làm nghề dệt chiếu ngày một đông, cũng đồng thời phát sinh khó khăn về cói nguyên liệu. Trước kia tiếng là vẫn dệt chiếu, nhưng chỉ là nghề phụ, tháng ba ngày tám mới dệt, nhà nào nhà nấy có thể tìm mua năm, ba tấn cói về dệt túc tắc cả năm. Hơn nữa bấy giờ cói cũng sẵn, ngay huyện này mỗi năm trồng hàng nghìn héc-ta cói, một làng Lật Dương dệt chiếu, chứ mười làng dệt chiếu vẫn đủ cói. Nhưng giờ, cả huyện hầu như chỉ còn mỗi Lật Dương duy trì được nghề dệt chiếu, và mỗi năm cũng chỉ cần trên dưới 300 tấn cói nguyên liệu thôi. Nhưng chính đất trồng cói huyện Tiên Lãng lại không đủ cung cấp cói, mà dân làng chiếu cói Lật Dương phải sang tận Thái Thụy (Thái Bình), vào mãi trong Nga Sơn, Quảng Xương (Thanh Hóa) mua cói.

Có cầu tất có cung. Trưởng thôn Phạm Văn Liên cùng hai người nữa là Lưu Xuân Hồng và Nguyễn Văn Ðáy bàn nhau lập tổ dịch vụ cung ứng cói cho các hộ dệt chiếu. Mới đầu phải đến tận nơi, thậm chí sắn quần lội bãi xem cói dài ngắn, tốt xấu ra sao mới thỏa thuận giá cả, số lượng, ký hợp đồng mua cói. Nhưng từ lần sau trở đi, nói như anh Liên: "Tiếng là cói mua mãi trong Thanh Hóa, nhưng có năm tôi vào một, hai lần, có năm không vào lần nào. Nhưng cần bao nhiêu họ vẫn chở ra đủ".

- Có đại lý, ủy thác mua cói ở trong đó à?- Tôi hỏi.

Liên bảo:

- Cần gì phải đại lý, ủy thác cho tốn kém. Ngay lúc này tôi có thể gọi điện vào Nga Sơn hay Quảng Xương bảo ngày ấy, ngày nọ chở ra cho bao nhiêu tấn cói, loại dài hay ngắn, là đúng ngày họ chở ra giao cho tôi tại đây đủ số lượng, chủng loại.

-Vậy còn giá cả thì sao? Cói cũng như mía, mỗi năm chỉ cắt một lần.

- Thường thì đã thỏa thuận với nhau trước. Vì làm ăn với nhau lâu dài nên trừ khi có biến động lớn, còn không, cũng ít thay đổi giá. Thường giá cói trung bình bảy nghìn rưỡi một ki-lô-gam, có xuống thấp là năm đến sáu nghìn, còn cao cũng chỉ đến mười nghìn đồng thôi. Ðã làm lâu dài với nhau thì cả hai bên đều phải thoáng, mới không bên nào để thiệt cho bên nào.

Dù chỉ có ba người mua vào bán ra, nhập kho xuất hàng đều đến tay, nhưng mỗi năm tổ dịch vụ cói của Phạm Văn Liên, Lưu Xuân Hồng, Nguyễn Văn Ðáy mua được hàng trăm tấn cói về bán lại cho các hộ dệt chiếu. Thường thì các hộ lấy cói trả tiền ngay, nhưng cũng có những nhà dệt chiếu bán được đến đâu, gom tiền trả đến đấy. Một kiểu ứng trước vốn cho người sản xuất, không lấy lãi. Nhưng đều là bà con họ hàng, xóm làng với nhau, nên hơn thiệt ở đây cũng chỉ là "lọt sàng xuống nia". Hơn nữa, mua cói chịu thường là nhà khó khăn, nên khi họ đến mua cói dẫu chưa có tiền, tổ dịch vụ vẫn giao cói cho họ mang về dệt cọ cạy kiếm đồng, cũng là một cách giúp nhau giảm nghèo.

Nghe Phạm Văn Liên nói về buôn cói, tôi mới hiểu vì sao diện tích cói ở huyện Tiên Lãng hầu như bị cá tôm lấn hết, mà làng Lật Dương mỗi năm vẫn có trên dưới 300 tấn cói nguyên liệu để dệt chiếu.

Có cói là tạo thuận lợi cho những người dệt chiếu giữ được việc làm quanh năm. Không chỉ mỗi hộ một go dệt, mà nhiều nhà có hai, ba go, thậm chí có nhà đến chục go dệt. Tôi đã đến một nhà như thế, chị Phạm Thị Nghĩa, 44 tuổi, là chủ của một xưởng dệt chiếu với mười go, thường thuê tới hai mươi người làm. Xưởng của chị rộng không kém hội trường hợp tác xã thời bao cấp, vì go dệt chiếu tuy không cồng kềnh như khung dệt vải, nhưng lại chiếm diện tích đặt go, căng sợi đay, và cạnh là chỗ người ngồi luồn cói, cũng khá rộng, mới rút cây gậy, đính sợi cói, luồn lóng đay không bị vướng. Thường một go dệt chiếm hết gian nhà, chưa kể đống cói lúc nào cũng ở bên mới tiện lấy. Mỗi go dệt có hai người, một ngồi trên giập go, bắt hai bên đường biên (mép chiếu), một ngồi dưới lấy cói đính vào đầu gậy, luồn qua phía trong go sang biên bên kia, cho người ngồi trên giập go, ép sợi cói sau sát chặt sợi cói trước thì chiếu mới đều sợi và không mau rão. Tôi đã đứng hồi lâu vừa nghe chị Nghĩa nói về thao tác dệt chiếu, vừa xem chị và cậu con trai, học xong lớp 12 nhưng vẫn ở nhà dệt chiếu với mẹ, tay năm tay mười hết rút cói, luồn cói, lại giập go, bắt biên không lúc nào ngơi. Hai mẹ con làm mải miết, khẩn trương thế, nhưng khi nghe tôi hỏi hai mẹ con dệt thế này mỗi ngày được mấy đôi, thì chị Nghĩa vội kêu:

- Ối giời, làm gì được ngày mấy đôi! Hai đôi là ngồi mải, còn cứ đứng lên ngồi xuống điếu thuốc, chén nước thì đến ba lá cũng khó.

 Cứ tính ngày dệt hai đôi đi, thì tiền công dệt mỗi người một ngày được bao nhiêu?

Chị Nghĩa không cần nghĩ ngợi, vừa luồn cói vừa nói:

Nếu trừ tiền mua cói, đay thì người dệt chiếu trơn như nhà em chỉ mỗi ngày một người được ba mươi lăm nghìn đồng, cũng là lấy công làm lãi. Như nhà em có xưởng dệt, có kỳ thuê tới hai mươi thợ, thì trừ tiền công cũng chỉ còn trên, dưới mười nghìn đồng một đôi. Thế nên, tiếng là cả làng dệt chiếu, như nhà em còn có cả một xưởng mười go dệt ở ngoài kia, dịp này mùa màng cho họ nghỉ, nhưng vẫn phải làm ruộng, nuôi lợn đấy, bác ạ.

Tôi hơi bất ngờ. Một nhà chỉ có hai vợ chồng và ba đứa con, đứa lớn đang học đại học mãi trên Hà Nội, đã có go đặt tại nhà không mấy ngày nghỉ dệt, lại còn cả một xưởng với chục go ở khu nhà bên kia đường, mà vẫn làm ruộng, nuôi lợn được là thế nào? Chị Nghĩa bảo:

- Ruộng bây giờ còn ít lắm, nhà em năm khẩu mà chỉ có bảy sào thôi. Vụ vừa rồi cũng thu hoạch tấn rưỡi thóc, chưa kể hơn mười triệu đồng tiền  bán lợn...

Cứ nghe giọng xởi lởi ấy cũng đủ biết người đàn bà có dáng người thấp, nhỏ nhắn và rắn rỏi kia đang không giấu được niềm vui trước công việc của mình. Làng chiếu cói Lật Dương hằng năm có thu nhập bình quân mười lăm đến mười bảy triệu đồng một người, trong khi bình quân chung của xã Quang Phục, tuy vào loại cao nhất huyện Tiên Lãng, cũng chỉ được chín triệu rưỡi. Chỉ tính doanh thu về chiếu cói, mỗi năm làng Lật Dương được từ tám đến mười tỷ đồng. Một làng có 367 hộ nông dân, kể cả hộ neo đơn, già cả, tàn tật mà một năm thu về nghề dệt chiếu đã ngần ấy, thì đúng như câu tôi được nghe khi đặt chân về xã này: giàu nhất bây giờ phải nói là làng Lật Dương, chỉ kể quỹ xây dựng làng văn hóa đã có tới trăm triệu. Thì cứ nghe giọng xởi lởi của chị Nghĩa cũng đủ biết, công việc làm ăn đang thông đồng bén giọt đến mức nào.

Tôi còn được nghe giọng xởi lởi không kém chị Nghĩa, khi đến nhà anh Nguyễn Văn Cập, một trong bốn cơ sở in chiếu hoa ở làng chiếu cói Lật Dương. Một ông chủ còn rất trẻ, mới 36 tuổi, nhưng đã có cơ ngơi khang trang, nằm cạnh đường trục làng. Nhà Cập mới xây ba tầng, cao to nhất nhì làng. Cạnh nhà là khu đất rộng, vừa làm sân tập kết chiếu bà con mang đến bán, vừa là nơi đặt lò hấp sấy chiếu sau khi in hoa văn xong. Phía sau là xưởng in hoa, kho chứa chiếu và các loại phẩm mực dùng cho việc in chiếu hoa. Khi anh Liên dẫn tôi đến thì ở chỗ xưởng in của Cập có mấy người đàn ông, đàn bà tuổi trung niên vừa đi xuống mãi Vinh Quang cắt cói, nhưng nhỡ con nước lại quay về, đang ngồi thuốc nước chuyện tào lao. Phía trong xưởng, vợ Cập đang đứng, tay cầm bản mẫu hoa văn, tay cầm bàn lăn. Cứ mỗi lần đặt bản mẫu xuống chiếu, lựa cho cân các đường hoa văn xong, chị lại cầm bàn lăn nhúng vào chậu mực mầu đỉa, rồi lăn đều trên bản mẫu, là một mảnh tôn mỏng được đục hình đường văn, hoa lá. Chị cứ in như thế, xong chiếu này đến chiếu khác.

Ðứng xem in hoa một lúc, tôi theo Cập vào nhà kho. Ba gian nhà rộng xếp đầy chiếu. Chiếu còn trơn, chưa in hoa. Chiếu đã in, chờ đủ mẻ đưa vào hấp sấy. Chiếu đã in hoa, hấp sấy rồi, chờ người đến lấy đi bán. Vừa đi, tôi vừa hỏi Cập:

Xưởng to thế này có mượn nhiều người làm không?

Em chỉ mượn hai người, đều là người nhà. Còn hai vợ chồng em với hai đứa con, một mười bảy, một mười lăm tuổi làm là chính. Thế nhưng mỗi tuần in sấy ít cũng năm, bảy trăm đôi chiếu.

- Có phải đi mua chiếu trơn về in, hay người ta tự mang đến bán?

Nghe tôi hỏi, Cập khà khà cười, tiếng cười thật vô tư:

- Bây giờ làm ăn hay lắm, bác ạ. Cứ ở nhà là họ tự đến thôi, mua cũng thế, mà bán cũng thế.

Ngày nào cũng như ngày nào, vào tầm trưa là các nhà trong làng có chiếu tự mang đến nhà Cập bán. Bao nhiêu Cập cũng mua, năm bảy đôi, thậm chí một vài lá, lấy chiếu trả tiền ngay tắp lự. Không chỉ mua chiếu của bà con trong làng, vợ chồng Cập còn mua chiếu của người từ Thái Bình đưa sang, thậm chí mãi trong Thanh Hóa chở ra. Cập mua chiếu trơn, rồi in hoa, hấp sấy. Những dịp Tết đến chiếu bán chạy, có tuần in sấy tới nghìn đôi, mà in sấy xong đến đâu đã có người đến lấy mang đi bán đến đấy.

- Người lấy mang đi bán là ở đâu? - Tôi hỏi, Cập nói ngay: "Cũng là người làng cả thôi". Rồi Cập khà khà cười:

- Ðội quân bán chiếu bây giờ thì thôi rồi. Cứ chiều tối bác đến nhà em thì suốt từ đây ra tới ngoài đường cái cửa nhà em kia, gọi là xe máy, xe đạp đỗ đầy. Toàn là của người đến lấy chiếu sớm mai mang đi bán. Phần đông là người làng, còn một số người ở nơi khác đến, nhưng cũng đều là người trong xã, trong huyện này cả. Lấy nhiều, hay ít, còn tùy thuộc vào mối giao hàng và địa bàn họ mang đi bán. Nhưng thường lấy nhiều là những người có xe máy, mỗi lần chở được vài ba mươi đôi; còn lấy ít là người đi xe đạp, sức đèo được bao nhiêu lấy bấy nhiêu, thường là mười lăm, hai mươi đôi. Mỗi ngày lấy một lần, hôm nay đến lấy chiếu thì thanh toán tiền chiếu lấy hôm qua.

- Họ có thanh toán cho anh sòng phẳng không? -Tôi cắt ngang.

Cập bảo:

- Sòng phẳng chứ. Vì những người lấy nhiều, lấy thường xuyên, em đều cấp trước vốn cho mỗi người hai triệu rưỡi, thế họ mới gắn bó với mình. Còn những người lấy ít, vì chỉ lọc cọc xe đạp ngày mười lăm hai mươi đôi, thì hôm nay trả tiền hôm qua, rồi lấy hàng. Nhưng nếu chưa bán hết, hoặc chưa thể trả hết tiền chiếu lấy hôm trước, thì em vẫn cho họ lấy chiếu để hôm sau mang đi bán. Vì những người lấy chiếu của nhà em mang đi bán phần đông là người làng, có người còn là chỗ anh em họ đương với nhau, "lọt sàng xuống nia",  xa lạ gì đâu mà sợ chắc lép.

Lúc ngồi ở nhà anh Liên tôi cũng nghe câu nói "lọt sàng xuống nia" đi đâu mà thiệt. Ai đó bảo thời kinh tế thị trường tình người nhạt nhòa, băng giá. Ở làng chiếu cói Lật Dương tôi thấy tình đằm thắm, nghĩa mặn nồng trong cách cư xử với cả những việc tưởng như lúc nào cũng thẳng căng dây đàn, như việc mua cói, bán chiếu. Có lẽ cái tình đằm thắm, mặn nồng ấy đã làm nên làng văn hóa - làng nghề chiếu cói Lật Dương? Trước thử thách nghiệt ngã của cơ chế thị trường, không biết bao nhiêu người ở bao nhiêu nơi đã bỏ nghề dệt chiếu, thì người Lật Dương chẳng những giữ được nghề, mà còn đưa nó thành thương hiệu "Chiếu cói Lật Dương" nổi tiếng khắp vùng Hải Phòng, Hải Dương, ra tới Quảng Ninh, lên tận Bắc Ninh, Bắc Giang. Chả thế, hôm tôi về Lật Dương nghe nói có người đánh ô-tô về tận làng mua tới 4.500 đôi chiếu một lúc.

Có thể bạn quan tâm