Chuyện kể rằng, ngày xưa ở Cửa Vạn có một đôi nam nữ yêu nhau. Cô gái nổi tiếng vì vẻ đẹp mặn mà, khiến tên bạo chúa cai quản vùng đất này nổi lòng tham, cho lính bắt cô về làm vợ lẽ. Thương nhớ người yêu và quyết không để tên bạo chúa xúc phạm, nàng bèn trốn biệt tích. Về sau, bên dãy núi giữa vùng biển Cửa Vạn, xuất hiện một hang đá hoang sơ rất đẹp, dân trong làng gọi là hang Trinh Nữ.
Chẳng bao lâu, đối diện hang Trinh Nữ, xuất hiện một hang đá khác, bên trong có những nhũ đá lung linh, huyền diệu mỗi khi có ánh sáng chiếu vào. Hai hang đá đối diện nhau, ngày ngày mượn tiếng gió thì thầm trò chuyện, tạo nên những âm thanh muôn sắc, khi ai oán thở than, khi reo vui như muốn kể mãivới người đời về mối tình thủy chung mà ngang trái.
Thấy chúng tôi chăm chú lắng nghe, người bạn đường kể tiếp: "Chút nữa qua Trung tâm văn hóa nổi Cửa Vạn, mọi người còn được nghe giới thiệu những câu hát giao duyên của nam nữ thanh niên làng chài, tỏ tình với nhau mỗi khi đi biển".
Ðến Trung tâm Văn hóa nổi Cửa Vạn, Nguyễn Thanh Lam - cán bộ của trung tâm, năm nay tròn 20 tuổi, giọng nói trong trẻo, sôi nổi giới thiệu lịch sử phát triển của làng chài và phần trưng bày Trung tâm Văn hóa nổi Cửa Vạn gồm các chủ đề: Tự nhiên và con người, Phương thức kiếm sống của ngư dân, Ðời sống vật chất, Thủy cư với cuộc sống đời người, Tâm linh và cuộc sống tinh thần của người dân Cửa Vạn, và cuối cùng là phần trưng bày: Cho hôm nay và cho muôn đời sau.
| Mô hình làng chài tại Trung tâm văn hóa nổi Cửa Vạn. |
Theo hướng dẫn của Thanh Lam, chúng tôi như lạc vào thế giới của dân vạn chài Cửa Vạn với các sưu tập về phương thức đánh cá truyền thống ở nơi đây. Ấy là các dụng cụ đánh bắt cá thủ công, sơ khai. Ví như để bắt con hà, dụng cụ chỉ có búa và thuyền nan. Người già và trẻ em đi thuyền ven các chân đảo để bắt con hà khi thủy triều xuống.
Rồi theo Thanh Lam kể, để bắt cá, bà con còn cho mồi vào "lờ" và thả xuống ven chân đảo. Sau khoảng 15 phút kéo lên là bắt được cả cá song, cá rìa, cá nhẻm. Các loại cá này đều ăn rất ngon... Ngày nay, cuộc sống của ngư dân Cửa Vạn đã phát triển, bà con không còn phải nay đây mai đó, đánh bắt lênh đênh trên biển. Bởi bà con đã kết thuyền, đóng nhà bè. Nhà bè có mui che mưa, che nắng, mỗi nhà được bố trí theo nhiều khu vực: nơi làm nghề chài lưới, bên dưới nuôi cá; nơi gia đình sinh hoạt, thờ cúng tổ tiên; phía sau là bếp...
"An cư lạc nghiệp", có lẽ điều đó vẫn đúng với cuộc sống của cư dân vạn chài. Những căn nhà bè là sự an cư, và cuộc sống cứ từ đó mà phồn vinh.
Ðến phần minh họa cho trưng bày Thủy cư với cuộc sống đời người, chúng tôi thật sự bị cuốn hút khi nghe những chàng trai, cô gái chia làm hai tốp hát giao duyên. Câu hát kể lại quá trình trai gái yêu nhau qua các câu hò trên biển, khi đi đánh cá vào những đêm trăng sáng. Ðôi lứa gặp nhau, tình cảm nảy sinh từ những lời ca, câu hò lưu truyền từ đời này qua đời khác. Ðể làm quen, người con trai đánh tiếng bằng lời khen cô gái nết na, xinh đẹp:
Hỡi cô trèo mũi cũng ngoan
Cái miệng cô cười cũng là thật xinh
Nghe tiếng hò của bạn trai, cô gái xốn xang bởi lời khen, nhưng vẫn không vội vàng mà ý tứ đáp lại:
Thuyền ai mà véo mà von
Trời còn chưa tối đầu non trăng mờ?
Ðến lượt chàng trai buông giọng, xem ra có vẻ hờn dỗi, trách móc:
Thuyền anh chiếu rủ màn vây
Sao em chê chiếc thuyền này không sang?
Câu qua câu lại, đến lúc dù đã ưng ý với người bạn tình, cô gái vẫn cất giọng hò da diết, như muốn chàng trai phải nói rõ lòng mình hơn:
Sang chơi em cũng muốn sang
Bồ nông sánh với phượng hoàng nên chăng?
... Cứ như thế, những cuộc hò biển đã se duyên, kết tóc cho rất nhiều tình yêu lứa đôi keo sơn, bền chặt và làm cho đời sống văn hóa tinh thần của dân làng chài vơi đi bao nỗi nhọc nhằn của những ngày mưu sinh. Ðến ngày hôn lễ, lại có một nghi lễ mang đậm nét văn hóa của người miền biển được thực hiện.
Trước ngày cưới, nhà trai chọn những chiếc thuyền đẹp treo đèn, kết hoa đi đón cô dâu. Chú rể trong trang phục áo the khăn xếp đi cùng Bồ đa (tên gọi ông mai, bà mối) đi đón cô dâu. Ðể đón được cô dâu, nhà trai phải đi qua ngõ khách, ngõ treo, ngõ hoa - tượng trưng bằng ba dải lụa mầu xanh, mầu vàng, mầu đỏ kết trên thuyền của nhà gái. Khi thuyền của cô dâu chú rể gặp nhau, hai bên hát giao duyên. Họ nhà trai hát trước, và chú rể cất giọng thăm dò:
Lơ thơ buồm lá dạo ngoài
Thuyền đã đến, chẳng biết lạch ngòi ở đâu?
Dù rất mong chờ thời khắc thiêng liêng được về làm dâu, nhưng cô dâu với sự phụ họa của các bạn gái vẫn đủng đỉnh đáp lại:
Em còn mải gió trông mây
Ai ngờ thuyền đã đến đây bao giờ
Cuối cùng thì, sau khi qua được ba ngõ, nhà trai đón dâu về làm lễ cúng gia tiên và mọi người hát chúc tụng cô dâu, chú rể: Bước vào mà lễ tơ hồng - Se cho vợ chồng giai lão bách niên - Từ rày chăn ấm, đệm êm - Trong thì kín gió, ngoài thì kín mưa...
Thú thật là sự hấp dẫn ở trung tâm này khó làm người mới đến thờ ơ. Có lẽ vì thế, chúng tôi cứ loanh quanh mãi với phần trưng bày có tên gọi là Thủy cư với cuộc sống đời người. Phần này giới thiệu vòng đời của ngư dân trên biển từ lúc sinh ra, lớn lên và đến lúc trưởng thành.
Dân làng chài xưa kia vốn có cuộc sống khá ổn định, quanh năm chỉ có biển và biển. Cuộc sống ít va chạm, các mối quan hệ khá hiền hòa và thường cũng chỉ diễn ra giữa bà con vạn chài với nhau. Ngày trước, khi người phụ nữ đến ngày sinh nở, được đưa vào vụng kín có bà mụ vườn.
Còn nay, đến ngày sinh, các chị được đưa vào đất liền có nhà hộ sinh, có y tá, tránh được những rủi ro có thể xảy ra. Vậy nhưng phong tục "Cúng phù" với lễ vật có xôi, gà, hoa quả, hương hoa do ông bà trong gia đình thực hiện vẫn được duy trì. Lễ cúng được thực hiện với mong ước đứa trẻ sinh ra sẽ khỏe mạnh, hay ăn chóng lớn.
Và điều đặc biệt là trẻ em sinh ra ở làng chài thường rất cứng cáp, 4 - 5 tuổi các cháu đã tập bơi. Ðến tuổi đi học, các cháu tự chèo thuyền đến trường. Làng chài Cửa Vạn đang thay da đổi thịt, trong đó có chương trình phổ cập giáo dục phổ thông, để không còn trẻ em mù chữ như ngày trước. Nay thì trẻ trong làng đứa nào cũng biết chữ, nhiều em học giỏi, viết chữ rất đẹp.
Thấy chúng tôi tấm tắc khen em Nguyễn Văn Thịnh, chữ viết đều tăm tắp, từng con chữ tròn trịa xinh xắn trên trang vở, cô giáo Phạm Thị Hương, giáo viên dạy lớp 4, cười vui và lý giải: "Các em ở làng chài này đều viết chữ đẹp, có lẽ vì quen chèo thuyền từ bé nên tay dẻo hơn chăng?".
Hôm chúng tôi đến Cửa Vạn, đội chèo thuyền của làng đang tập luyện để thi đấu ở TP Hạ Long. Bác Nguyễn Văn Tro, Trưởng thôn làng chài Cửa Vạn, giới thiệu: "Cả làng có 120 gia đình sinh sống. Ðể tham gia lễ hội chèo thuyền của thành phố, chúng tôi chọn 12 thanh niên có sức khỏe, có kỹ thuật chèo thuyền. Làng chúng tôi thường xuyên tham gia các lễ hội, nhằm duy trì truyền thống của quê hương và giúp con cháu có sức khỏe. Ðây cũng là dịp trai làng chài đi đua tài, giới thiệu để mọi người biết về văn hóa của vạn chài Cửa Vạn".
Làng chài xa dần sau màn nước trắng xóa mà chiếc ca-nô làm ra trên mặt biển. Những chiếc nhà bè nhỏ dần, nhỏ dần... Vậy mà Cửa Vạn vẫn có điều gì đó làm cho chúng tôi không chỉ ngoảnh lại mà còn muốn một ngày nào đó sẽ lại đến nơi đây. Vẫn văng vẳng bên tai điệu hát câu hò, giọng nói vang vang nhưng đôn hậu của những người dân mưu sinh trên biển.
Lại nhớ đến dòng chữ mà một khách du lịch nước ngoài ghi vào cuốn sổ lưu niệm của Trung tâm văn hóa nổi Cửa Vạn: "Ðến Việt Nam, không đến Vịnh Hạ Long và Trung tâm văn hóa nổi Cửa Vạn, coi như chưa đến Việt Nam".