Làm gì để duy trì và phát triển nghề đánh bắt xa bờ?

Theo ông Ðặng Ngọc Phú, một chủ tàu ÐBXB ở Tam Quan Bắc (Hoài Nhơn, Bình Ðịnh) thì so với cùng kỳ năm ngoái, chi phí cho mỗi chuyến biển năm nay tăng hơn 30%; hiện giá dầu giảm nhưng vì giá các loại hải sản lại giảm mạnh (thí dụ như cá mối, cá lở, cá xù trước đây 10 - 13.000 đồng/kg, giờ chỉ còn 6-7000 đồng/kg; mực một số loại từ 40 - 45.000 đồng/kg, giảm còn 30.000 đồng/kg...). Gần như chuyến biển nào ngư dân cũng lỗ, Nhà nước bù lỗ cũng chỉ được phần nào. Cùng với việc tăng giá dầu và chi phí sản xuất, nguồn lợi thủy sản ngày càng giảm sút, trong khi việc chuyển nghề vươn ra đánh bắt xa bờ hạn chế do ngư dân thiếu vốn đầu tư và chính sách hỗ trợ phù hợp; thời tiết cũng diễn biến phức tạp, bão lũ liên tiếp làm giảm thời gian bám biển... Tất cả các yếu tố trên đang là những trở ngại, thách thức lớn đối với hoạt động nghề cá, nhất là lực lượng ÐBXB.

Theo con số thống kê chưa đầy đủ, số lượng tàu, thuyền ÐBXB của các tỉnh khu vực Nam Trung Bộ hiện có gần 20.000 chiếc. Trong đó Bình Ðịnh là địa phương có số lượng tàu, thuyền ÐBXB nhiều nhất, gần 6.500 chiếc với tổng công suất 250.000 CV. Hơn 60% tổng số tàu được trang bị khá đầy đủ các thiết bị hiện đại đủ điều kiện vươn ra đánh bắt và di chuyển ngư trường trên phạm vi rộng để khai thác quanh năm. Tuy nhiên, đội tàu ÐBXB của miền trung và các địa phưong khu vực Nam Trung Bộ nhiều hạn chế về năng lực, trình độ quản lý, tay nghề sử dụng, khai thác phương tiện, thiết bị; đội ngũ thuyền viên hầu như chưa có tính chuyên nghiệp; kỹ thuật đánh bắt phần lớn nặng kinh nghiệm truyền thống; việc vận dụng kiến thức, kỹ thuật đánh bắt, bảo quản theo công nghệ tiên tiến nhiều hạn chế. Nhất là sự yếu kém của hoạt động dịch vụ hậu cần nghề cá.

Việc gắn kết giữa các đơn vị thu mua, chế biến xuất khẩu với người sản xuất chưa có được những quy định ràng buộc. Các cơ sở thu mua hiện nay phần lớn đều là trạm trung chuyển với trang thiết bị thiếu, chưa đáp ứng yêu cầu vệ sinh an toàn thực phẩm; tình trạng ép cấp, ép giá; tranh mua, tranh bán xảy ra thường xuyên làm giá thu mua thấp và bấp bênh, ngư dân thiệt thòi. Một điều đáng lo ngại là tình trạng mua xô vẫn còn khá phổ biến, dẫn đến việc các chủ tàu chưa quan tâm đúng mức khâu bảo quản hải sản, làm giảm chất lượng sản phẩm, giảm giá trị xuất khẩu và hiệu quả sản xuất. Mặt khác hệ thống cầu cảng, bến cá, khu neo đậu tránh bão ở nhiều tỉnh mới chỉ đáp ứng khoảng 50% số lượng tàu, thuyền neo đậu, bán sản phẩm và sửa chữa, bảo dưỡng... Những hạn chế chủ quan, lẫn những yếu tố khách quan đã làm cho hiệu quả sản xuất nghề cá, nhất là ÐBXB có nguy cơ giảm sút... Vậy đâu là giải pháp duy trì và hướng đến sự phát triển có tính bền vững của nghề ÐBXB?

Ðến nay nhiều địa phương khu vực Nam Trung Bộ bước đầu thực hiện một số giải pháp - có tính mô hình trong hoạt động nghề cá; tuy mới chỉ là bước đầu nhưng hiệu quả của nó đã và đang có sức thu hút ngư dân. Ðó là liên kết sản xuất dưới hình thức "Tổ đoàn kết" nhằm giúp nhau về kỹ thuật, ngư trường, đánh bắt, hỗ trợ trong hoạn nạn, thiên tai. Trước hết các Tổ đoàn kết được hình thành trong anh em tộc họ với 3-4 tàu ÐBXB được trang bị khá đầy đủ cùng ra khơi. Khi đến ngư trường, phân công nhau đi tìm luồng cá. Khi phát hiện được thì thông báo cho nhau cùng đến khai thác. Cá đánh bắt được dồn lại cho một tàu chở về đất liền và mua thêm dầu, lương thực, nhu yếu phẩm ra tiếp tế cho các tàu đang bám biển. Bên cạnh đó, có thêm hình thức liên kết cùng nghề, khác nghề (như câu cá ngừ, rút chì, câu mực...) được phát huy. Nhiều nhóm tàu cùng nghề hay khác nghề khai thác cùng ngư trường liên kết, hỗ trợ nhau về thông tin ngư trường (và khắc phục các sự cố trên biển). Khi phát hiện đàn cá lớn thì gọi thêm tàu khác đến cùng khai thác. Phương thức ăn chia hoặc là thỏa thuận trước hoặc dựa vào sự hỗ trợ trong quá trình khai thác để chia theo tỷ lệ từ 15 đến 30% tổng số hải sản đánh bắt được. Cùng với sự hỗ trợ, hợp tác trong đánh bắt, các Tổ đoàn kết bước đầu thực hiện việc tổ chức quản lý, chỉ đạo sản xuất. Trước khi ra biển, các tổ nghiên cứu kỹ ngư trường, thời tiết để bố trí sản xuất hợp lý, hạn chế sự cố. Sau mỗi chuyến biển, kịp thời rút kinh nghiệm các sai sót trong các khâu khai thác; coi trọng việc trao đổi, học tập nâng cao khả năng ứng dụng các tiến bộ kỹ thuật và đổi mới công nghệ khai thác, bảo quản... Ðến nay hầu hết các địa phương trong khu vực đều đã hình thành các Tổ đoàn kết ÐBXB (riêng Bình Ðịnh có 52 tổ).

Hai là, phát triển đội tàu làm dịch vụ trên biển. Các tàu này đều có trọng tải và công suất lớn vừa phục vụ bán dầu, đá, lương thực, nước ngọt, nhu yếu phẩm khác cho các tàu ÐBXB theo yêu cầu từng tàu và trong từng thời điểm, vừa tổ chức thu mua hải sản của các tàu đánh bắt được theo phương thức mua bán linh hoạt, giá cả hợp lý được ngư dân chấp nhận...  Do được phục vụ hậu cần tại chỗ nên thời gian bám biển của các tàu ÐBXB tăng lên, chi phí sản xuất giảm, hiệu quả sản xuất của các tàu ÐBXB bước đầu tăng cho dù trong điều kiện nhiều bất lợi về giá cả đầu vào lẫn đầu ra như hiện nay. Mô hình này phát triển mạnh ở các tỉnh Khánh Hòa, Ninh Thuận...

Tuy nhiên, nhìn trên tổng thể như đánh giá của đồng chí Nguyễn Văn Mong, Phó Giám đốc Sở NN-PTNT Bình Ðịnh, cho thấy các mô hình trên ra đời mang tính tự phát nên bên cạnh những ưu điểm, không tránh khỏi những hạn chế, khiếm khuyết cần được khắc phục và nâng lên một bước "tự giác". Ðiều này đòi hỏi phải có vai trò tác động của các cơ quan quản lý Nhà nước các cấp. Mặt khác, cần nhấn mạnh hơn, mặc dù những mô hình trên đã và đang phát huy tác dụng tích cực của nó trên thực tế hoạt động nghề cá. Nhưng rõ ràng đây không thể là "chiếc gậy vạn năng"- là tất cả để có thể "hóa giải"mọi khó khăn của nghề cá nói chung - nhất là với ÐBXB. Bởi vậy, ngoài việc cần tiếp tục hoàn thiện và nhân rộng các mô hình trên thì điều quan trọng vẫn là sự nỗ lực chủ quan từ phía ngư dân và việc hỗ trợ hơn nữa của Nhà nước trong chiến lược xây dựng nghề cá theo hướng chuyên môn hóa, hiện đại hóa như các nước có trình độ nghề cá tiên tiến... Muốn đạt năng suất cao, trong đánh bắt hải sản đòi hỏi phải có tay nghề cao cùng phương tiện, công cụ làm nghề hiện đại và đủ sức ứng dụng tiến bộ kỹ thuật trong và sau khai thác...

Ðể làm được những yêu cầu trên ngoài ý thức vươn lên của ngư dân, cần hơn là sự hỗ trợ của Nhà nước các cấp trong vấn đề thực hiện các giải pháp đồng bộ. Trong đó có việc chú trọng tăng mức đầu tư cho hoạt động của ngành để tổ chức các lớp tập huấn, đào tạo nâng cao tay nghề, kỹ thuật, khả năng ứng dụng tiến bộ kỹ thuật đánh bắt, bảo quản sản phẩm cũng như các kiến thức về an toàn trên biển cho ngư dân. Trước mắt, bên cạnh việc đẩy nhanh tiến độ giải ngân thực hiện Quyết định 289 của Chính phủ về hỗ trợ xăng dầu cho ngư dân, về lâu dài, nghề cá phải được tập trung tổ chức lại sản xuất, quy hoạch theo hướng phát triển số lượng tàu ÐBXB một cách hợp lý (trên cơ sở nhân lực, nguồn lực, ngư trường, v.v.); nhân rộng mô hình làm ăn cộng đồng (trước mắt cần sớm tổng kết, đồng thời bổ sung hoàn thiện và nhân rộng hai mô hình trên) và phát triển mạnh các HTX dịch vụ hậu cần nghề cá theo mô hình quản lý mới. Mặt khác, Nhà nước cần tiếp tục đầu tư mạnh hơn để xây dựng các cảng cá, khu neo đậu tàu, thuyền (mà trọng tâm là cần sớm hoàn thành kế hoạch xây dựng hệ thống 98 khu neo đậu tàu, thuyền theo Quyết định 288/2005 của Thủ tướng Chính phủ về "Phê duyệt điều chỉnh quy hoạch neo đậu tránh trú bão cho tàu cá đến năm 2010 và tầm nhìn đến năm 2020") ; các trung tâm dịch vụ bảo đảm phục vụ phát triển khai thác hải sản xa bờ; sớm hình thành các "chợ cá" trên biển; hình thành một "dây chuyền" với các ràng buộc chặt chẽ từ đánh bắt, thu mua, chế biến hải sản giữa các đơn vị, địa phương và ngư dân để thực hiện hợp tác, hỗ trợ lẫn nhau, nhằm nâng cao hiệu quả kinh tế và an toàn trong SX-KD lĩnh vực nghề cá và khai thác kinh tế biển nói chung...

          MAI TRUNG

Có thể bạn quan tâm