Ðây là những công việc đòi hỏi sự tận tâm, tận lực, miệt mài, tỉ mỉ. Nếu sơ sài, qua loa, bỏ sót dấu vết hoặc kết luận giám định sai, có thể dẫn đến bỏ lọt tội phạm, có khi còn làm oan người vô tội. Mỗi năm, lực lượng KTHS tham gia khám nghiệm hàng nghìn vụ việc, giám định hàng vạn yêu cầu.
Công tác KTHS cũng lắm nhọc nhằn, gian nan: khi thì hiện trường rất rộng lớn, phức tạp phải tiến hành khám nghiệm và giám định trong nhiều tháng; lúc thì thủ phạm xóa dấu vết, hay tạo hiện trường giả; đặc biệt là hiện trường có người chết, thậm chí tử thi đang trong thời kỳ thối rữa, hay nhiễm HIV..., nhưng cán bộ KTHS vẫn không quản ngại khó khăn, tận tâm hoàn thành nhiệm vụ.
Năm 1997, theo yêu cầu của Công an TP Hà Nội, Viện Khoa học hình sự đã tiến hành thực nghiệm điều tra, giám định lại xác định cơ chế gây thương tích trên người nạn nhân Nguyễn Ðức Thắng (tức Ðạt mũ cối) trong vụ giết người xảy ra từ năm 1991, tại phố Hàng Chiếu (Hà Nội).
Ðây là một vụ án khó, do vụ án đã xảy ra sau 6 năm, nhiều dấu vết không còn, các giám định viên phải nghiên cứu hồ sơ, tài liệu, tiến hành thực nghiệm điều tra nhiều lần. Sau nhiều tháng nghiên cứu giám định, các giám định viên đã kết luận cơ chế hình thành vết thương trên người nạn nhân, là cơ sở khoa học quan trọng để cơ quan điều tra kết luận Dương Văn Khánh (tức Khánh trắng) chính là thủ phạm vụ án, giúp cơ quan điều tra triệt xóa băng nhóm tội phạm nguy hiểm hoạt động theo kiểu "xã hội đen" trong những năm 90 của thế kỷ 20 trên địa bàn thành phố, bảo vệ cuộc sống bình yên của nhân dân.
Năm 2002, Viện Khoa học hình sự tiến hành giám định lại các yêu cầu giám định làm rõ nguyên nhân chết và cơ chế hình thành dấu vết thương tích trên người Trung sĩ Phan Lê Sơn, các vụ giết người cố ý gây thương tích do Châu Phát Lai Em gây ra, cung cấp các chứng cứ quan trọng cho cơ quan điều tra làm rõ các hành vi phạm tội của Trương Văn Cam và đồng bọn.
Công tác giám định ma túy góp phần khám phá nhiều đường dây buôn bán ma túy lớn như các đường dây do Nguyễn Văn Hải (tức Hải Luận), Trịnh Nguyên Thủy cầm đầu... Ðã cung cấp cho các cơ quan chức năng nhiều thông tin quan trọng về phương thức thủ đoạn, vận chuyển, nguồn gốc và những chất ma túy mới đưa vào nước ta, cũng như những nhận định về địa điểm sản xuất, điều chế.
Về giám định tài liệu, đã giám định hàng nghìn tài liệu liên quan đến các vụ lập khống hồ sơ hoàn thuế giá trị gia tăng chiếm đoạt tài sản của Nhà nước; kịp thời phát hiện các thủ đoạn làm tiền giả, các thủ đoạn làm giả giấy tờ của cơ quan Nhà nước để buôn lậu, lừa đảo chiếm đoạt tài sản, tham ô, trốn thuế, gian lận thương mại...
Công tác KTHS còn góp phần làm rõ nguyên nhân nhiều vụ cháy nổ, sự cố nghiêm trọng. Ðiển hình như: vụ sự cố đường ống dẫn khí đốt tại biển tỉnh Bà Rịa - Vũng Tàu năm 1995. Ðây là vụ sự cố ống dẫn khí đầu tiên ở Việt Nam. Sự cố xảy ra ở ngoài khơi, cách đất liền hàng trăm km. Công tác khám nghiệm hiện trường, giám định phải sử dụng nhiều phương tiện và nhân lực có chuyên môn cao, phải quay phim chụp ảnh sâu dưới đại dương 50 m, phải trục vớt các ống bị gãy vỡ lên để giám định, khám nghiệm... Kiên trì, bền bỉ trong suốt năm tháng, cán bộ khám nghiệm và giám định, nhiều khi phải nhịn đói, nhịn khát ở ngoài khơi, cuối cùng đã kết luận được chính xác nguyên nhân gây ra sự cố do tàu Trường Sa gây nên...
Từ một đơn vị cấp phòng, đến nay lực lượng KTHS đã phát triển lớn mạnh, trở thành một hệ nghiệp vụ từ T.Ư đến địa phương với nhiệm vụ khám nghiệm hiện trường, giám định và triển khai biện pháp kỹ thuật phòng, chống tội phạm. Với bề dày kinh nghiệm và sự hỗ trợ của các phương tiện hiện đại, năng lực phát hiện, khai thác dấu vết ngày một nâng lên, nhiều dấu vết ở dạng vi vết trước đây không phát hiện và giám định được, thì nay đã có thể phát hiện, khai thác và sử dụng.
Hiện nay có 11 chuyên ngành KTHS và pháp y, trong đó có những chuyên ngành sử dụng phương pháp, công nghệ ngang tầm các nước phát triển, như công nghệ giám định ADN. Công tác kỹ thuật phòng, chống tội phạm đã triển khai đồng bộ cả trong phòng ngừa và điều tra phá án ở hầu hết các địa phương; phương pháp, phương tiện kỹ thuật phòng, chống tội phạm cũng được bổ sung, cải tiến, kịp thời ứng phó với những phương thức thủ đoạn phạm tội mới.
Bản chất của KTHS là ứng dụng thành tựu khoa học kỹ thuật vào công tác đấu tranh phòng, chống tội phạm, do đó cùng với việc hoàn thành nhiệm vụ chuyên môn, lực lượng KTHS còn tích cực, chủ động trong công tác nghiên cứu khoa học. Sau hơn nửa thế kỷ xây dựng và trưởng thành, lực lượng KTHS đã có một đội ngũ cán bộ khoa học đông đảo, tiến hành nghiên cứu thành công nhiều đề tài khoa học cấp Bộ và cấp cơ sở, có giá trị ứng dụng thực tiễn cao.
Mặc dù vậy, có nơi, có lúc việc khám nghiệm hiện trường còn sơ sài, bỏ lọt dấu vết, gây khó khăn cho các quá trình tố tụng tiếp theo, như: Vụ án "Ðầm dơi" Cà Mau, vụ án "Vườn điều" Bình Thuận, vụ tai nạn giao thông trên đường Láng - Hòa Lạc, Hà Nội.
Khoa học công nghệ càng phát triển thì vị trí, vai trò của công tác KTHS ngày càng được nâng cao, có tác dụng to lớn trong đấu tranh phòng, chống tội phạm. Như yêu cầu phát hiện và khai thác những "dấu vết điện tử" trong các vụ tội phạm sử dụng công nghệ cao để gây án. Việc nắm bắt những thành tựu khoa học ứng dụng vào thực tiễn là một yêu cầu cấp thiết đối với mỗi cán bộ Công an nói chung và cán bộ KTHS nói riêng.
Phải xác định nghiên cứu khoa học là nhiệm vụ ưu tiên hàng đầu, đồng thời mở rộng hợp tác quốc tế, cử cán bộ đào tạo đại học và trên đại học ở nước ngoài; trao đổi thông tin, chuyển giao công nghệ với các nước có khoa học hình sự phát triển; tổ chức hội thảo khu vực và quốc tế, mời chuyên gia nước ngoài đến tập huấn, đào tạo cho cán bộ KTHS nước ta. Hoàn thiện chế độ chính sách đối với cán bộ, chiến sĩ, đưa công tác KTHS vào chính quy, từng bước hiện đại.