Kiểm toán Nhà nước - 15 năm xây dựng và phát triển

ND - Kiểm toán Nhà nước (KTNN) được thành lập theo Nghị định số 70/CP ngày 11-7-1994 của Chính phủ. Nhìn lại 15 năm xây dựng và phát triển, với nhiều khó khăn, thách thức của chặng đường đầu, thành tựu và kết quả KTNN đã đạt được khá toàn diện, quan trọng và rất căn bản, tạo tiền đề, nền tảng cho sự phát triển bền vững trong tương lai.

Tạo lập khuôn khổ pháp lý cho tổ chức và hoạt động

KTNN đã từng bước tạo lập môi trường pháp lý cho tổ chức và hoạt động kiểm toán. Trước năm 2006, KTNN là cơ quan thuộc Chính phủ, được tổ chức và hoạt động theo Nghị định số 70/CP và Quyết định số 61/TTg của Thủ tướng Chính phủ, thực hiện kiểm toán theo chương trình, kế hoạch kiểm toán do Thủ tướng Chính phủ phê duyệt. Nghị định số 93/2003/NÐ-CP ngày 13-8-2003 của Chính phủ là một bước tiến quan trọng, mở rộng quy mô, hoàn thiện cơ cấu tổ chức, bổ sung chức năng, nhiệm vụ của KTNN. Luật Kiểm toán Nhà nước có hiệu lực từ ngày 1-1-2006 là một dấu son trong chặng đường 15 năm xây dựng và phát triển KTNN, đánh dấu giai đoạn phát triển mới của KTNN, với vị thế là cơ quan kiểm tra tài chính Nhà nước do Quốc hội thành lập, hoạt động độc lập và chỉ tuân theo pháp luật. Trên cơ sở Luật KTNN, cơ quan KTNN đã phối hợp chặt chẽ với các cơ quan của Quốc hội và Chính phủ, trong một thời gian ngắn đã xây dựng, trình các cơ quan có thẩm quyền ban hành tất cả các văn bản hướng dẫn thực hiện Luật KTNN (gồm 7 Nghị quyết của Ủy ban Thường vụ Quốc hội, 2 Nghị định của Chính phủ, 4 Thông tư và Thông tư liên tịch). Tổng KTNN cũng đã ban hành theo thẩm quyền 63 văn bản, trong đó có 19 văn bản quy phạm pháp luật thể chế hóa đồng bộ Luật KTNN và quy chế hóa hầu hết các mặt liên quan đến tổ chức, hoạt động KTNN, là cơ sở để quản lý, điều hành hoạt động kiểm toán theo hướng công khai, minh bạch, chuyên nghiệp, chính quy và từng bước hiện đại. Từ khi Luật KTNN đi vào cuộc sống, KTNN cũng đã chú trọng xây dựng và thực hiện các quy chế phối hợp với các cơ quan của Quốc hội, Chính phủ và các ngành như: Quy chế phối hợp với Ủy ban Tài chính - Ngân sách, Ủy ban Kinh tế của Quốc hội; Quy chế phối hợp công tác trong hoạt động kiểm toán giữa KTNN với Bộ Quốc phòng, Bộ Công an; Quy chế phối hợp trong công tác phòng, chống tham nhũng giữa KTNN với Văn phòng Ban Chỉ đạo Trung ương về phòng, chống tham nhũng, Bộ Công an, Tòa án Nhân dân tối cao, Viện Kiểm sát Nhân dân tối cao và Thanh tra Chính phủ; Thỏa thuận hợp tác giữa KTNN và Thông tấn xã Việt Nam trong phối hợp tuyên truyền, thông tin về hoạt động KTNN. Cùng với công tác xây dựng, ban hành, công tác phổ biến, tuyên truyền pháp luật cũng hết sức được chú trọng. Bằng nhiều nguồn lực khác nhau, trong ba năm từ khi Luật KTNN có hiệu lực, KTNN tổ chức biên soạn, in và phát hành hàng vạn tài liệu hướng dẫn, hỏi đáp và phổ biến Luật KTNN và các văn bản hướng dẫn đến tất cả các bộ, ngành, cơ quan Trung ương, HÐND và UBND các cấp chính quyền tỉnh, huyện, xã. Tổ chức và phối hợp tổ chức hơn 40 lớp nghiên cứu, phổ biến Luật KTNN cho hơn 6.000 học viên ngoài ngành, kể cả cho đội ngũ cán bộ quản lý báo chí, các biên tập viên, phóng viên của các cơ quan truyền thông để góp phần tuyên truyền, phổ biến thông tin về tổ chức và hoạt động KTNN.

Hoàn thiện tổ chức bộ máy và phát triển nguồn nhân lực

15 năm qua, tổ chức, bộ máy, đội ngũ KTNN đã phát triển vượt bậc từ không đến có, liên tục được củng cố và hoàn thiện hơn. Khi mới thành lập chỉ có bốn đơn vị KTNN chuyên ngành và Văn phòng với vài chục cán bộ từ các bộ, ngành và địa phương, đến nay KTNN đã hình thành bộ máy theo mô hình tập trung thống nhất gồm 25 đơn vị cấp vụ trực thuộc, trong đó có 6 đơn vị tham mưu, giúp việc, bảy KTNN chuyên ngành, chín KTNN khu vực và ba đơn vị sự nghiệp, với hơn 1.300 cán bộ, công chức. Thấm nhuần lời dạy của Bác Hồ "cán bộ là cái gốc của mọi công việc", KTNN luôn kiên trì, chăm lo xây dựng đội ngũ cán bộ, công chức, kiểm toán viên (KTV) trong sạch, vững mạnh theo phương châm: "công minh, chính trực, nghệ tinh, tâm sáng", gắn với Cuộc vận động Học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh. Có thể nói, KTNN đã tạo lập được môi trường, xây dựng được cơ chế, kế hoạch, chương trình đào tạo, bồi dưỡng liên tục, đa dạng, khá đồng bộ và toàn diện cả về đào tạo bằng cấp và chuyên gia; trong và ngoài nước; chuyên môn nghiệp vụ, tin học, ngoại ngữ và kiến thức, kỹ năng quản lý, văn hóa và ứng xử nghề nghiệp; bồi dưỡng cập nhật kiến thức và đào tạo theo ngạch, bậc công chức, kết hợp với thi và cấp chứng chỉ KTV Nhà nước. Công tác quy hoạch, tuyển dụng, đào tạo, bồi dưỡng, luân chuyển, bổ nhiệm và bổ nhiệm lại cán bộ luôn được thực hiện bài bản, khoa học, công khai, minh bạch, theo đúng quy định của Ðảng, Nhà nước, phù hợp điều kiện đặc thù và khả năng của ngành. Nhờ vậy, chất lượng đội ngũ cán bộ, công chức không ngừng được nâng cao, đến nay hơn 97,5% có trình độ đại học trở lên, 100% KTV có trình độ đại học trở lên, nhiều người có từ hai đến ba văn bằng đại học, hơn 17% số cán bộ, công chức có trình độ sau và trên đại học, trong đó có năm giáo sư, phó giáo sư, hơn 200 tiến sĩ, thạc sĩ. KTNN đã chọn cử và đào tạo thành công một số giảng viên có trình độ quốc tế của INTOSAI, đào tạo 40 người đầu tiên có trình độ KTV quốc tế của Hiệp hội Kế toán viên công chứng Vương quốc Anh (ACCA), và Ca-na-đa (CCAF) để làm nòng cốt xây dựng đội ngũ KTV chuyên nghiệp, có trình độ tiếp cận khu vực và thế giới.

Kết quả thực hiện chức năng, nhiệm vụ được giao

Với khuôn khổ pháp lý dần hoàn thiện, năng lực được tăng cường, hoạt động KTNN ngày càng rộng về quy mô, đa dạng về loại hình và phương thức kiểm toán, tiến bộ về chất lượng kiểm toán, và hiệu quả kiểm toán.

- Về quy mô, đã tăng dần số lượng cuộc kiểm toán theo từng năm; từ năm 2006 quy mô kiểm toán bình quân gấp hai lần so với giai đoạn trước, riêng lĩnh vực đầu tư XDCB gấp bốn lần. Ðối với lĩnh vực NSNN, số lượng đầu mối và tổng số thu, chi NSNN được kiểm toán tăng nhanh, đến nay đã kiểm toán hằng năm được hơn 50% số tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương.

Ngoài việc kiểm toán theo kế hoạch hằng năm, KTNN còn thực hiện nhiều cuộc kiểm toán phục vụ công tác giám sát theo yêu cầu của Ủy ban Thường vụ Quốc hội như: Chương trình trồng mới 5 triệu ha rừng, Tổng công ty Tài chính cổ phần Dầu khí, Tổng công ty Thuốc lá Việt Nam...; kiểm toán theo yêu cầu của Thủ tướng Chính phủ, như: kiểm toán để giải quyết tồn đọng tài chính tại 35 nhà máy đường, Xí nghiệp liên doanh dầu khí Vietsovpetro, Công ty cổ phần phát triển đầu tư công nghệ FPT, Dự án Trung tâm Hội nghị quốc gia, Dự án Cầu Vĩnh Tuy, Dự án Ðường 5 kéo dài, v.v. Việc thực hiện kiểm toán các chương trình mục tiêu quốc gia (MTQG) theo đề nghị của các nhà tài trợ như: Chương trình 135, Chương trình MTQG nước sạch và vệ sinh môi trường nông thôn, Chương trình MTQG về giáo dục và đào tạo... ngày nay đã trở thành hoạt động thường xuyên được các bộ, ngành, nhà tài trợ quốc tế tín nhiệm, đánh giá cao.

- Về loại hình và phương thức kiểm toán, từ khi có Luật KTNN, KTNN đã tăng cường kiểm toán cả về diện và chiều sâu, thực hiện đầy đủ cả ba loại hình kiểm toán: báo cáo tài chính, tuân thủ và hoạt động, chú trọng đánh giá tình hình thực hiện Luật Phòng, chống tham nhũng, Luật Thực hành tiết kiệm, chống lãng phí. Trong những năm gần đây, nền kinh tế từng bước phát triển theo chiều sâu, chất lượng tăng trưởng được chú trọng, KTNN đã có những tiến bộ mới trong kiểm toán hoạt động nhằm đánh giá tính kinh tế, hiệu lực và hiệu quả trong quản lý, sử dụng ngân sách, tiền và tài sản Nhà nước, trước hết là đối với các dự án đầu tư, chương trình MTQG. Năm 2008 và 2009, trước diễn biến nhanh của nền kinh tế, để hỗ trợ tăng cường kiểm soát, nâng cao hiệu lực, hiệu quả chính sách tiền tệ và chính sách tài khóa, KTNN đã điều chỉnh mục tiêu, trọng tâm kiểm toán, chú trọng kiểm tra phân tích nguyên nhân lạm phát, đánh giá việc thực hiện trên thực tế các giải pháp của Chính phủ chống lạm phát, kích cầu theo kết luận của Bộ Chính trị và Nghị quyết của Quốc hội.

Cùng với sự đa dạng các loại hình kiểm toán, các phương thức kiểm toán quyết toán (hậu kiểm), bắt đầu từ năm 2006, thực hiện quy định của Luật KTNN, KTNN đã thực hiện thẩm định và trình bày ý kiến về dự toán NSNN hằng năm Chính phủ trình Quốc hội. Nhiều dự án trọng điểm quốc gia cũng được kiểm toán từ khi khởi công đến khi kết thúc đầu tư như: Trung tâm Hội nghị quốc gia, Dự án Cầu Vĩnh Tuy, Dự án Ðường 5 kéo dài, Dự án Nhà máy xi-măng Thái Nguyên, Dự án Ðiện Cà Mau 1, Cà Mau 2... theo chỉ đạo của Thủ tướng Chính phủ và đề nghị của một số bộ, địa phương. Phương thức kiểm toán chuyên đề cũng được triển khai mở rộng từ khi thực hiện Luật KTNN nhằm đi sâu kiểm toán, giải đáp các vấn đề thực tiễn trong công tác quản lý ngân sách, tiền và tài sản Nhà nước đang được dư luận quan tâm và đã đề xuất được nhiều ý kiến có giá trị để hoàn thiện hệ thống luật pháp, chính sách, chế độ quản lý. Ðiển hình là các cuộc kiểm toán chuyên đề quản lý và sử dụng ngân sách chi cho khoa học - công nghệ giai đoạn 2003 - 2006; chuyên đề chi sự nghiệp môi trường giai đoạn 2006 - 2008; chuyên đề bù lỗ mặt hàng dầu giai đoạn 2006 - 2008; chuyên đề quản lý và sử dụng phí, lệ phí giao thông đường bộ hay chuyên đề mua sắm, quản lý, sử dụng tài sản của các ban quản lý dự án của các bộ, ngành và địa phương...

- Về chất lượng kiểm toán, ngày càng có tiến bộ hơn, đáp ứng ngày càng tốt hơn yêu cầu của thực tiễn quản lý. Những kiến nghị của KTNN ngày càng đa dạng, phong phú, sắc sảo và có chất lượng hơn, được Chính phủ, Quốc hội, các bộ, ngành, địa phương sử dụng ngày càng nhiều trong xem xét, phê chuẩn dự toán và quyết toán ngân sách, giám sát ngân sách và thực hiện chính sách pháp luật; trong quản lý và xây dựng chính sách tài chính - ngân sách; các đơn vị được kiểm toán khắc phục những yếu kém, bất cập, hoàn thiện hệ thống kiểm soát nội bộ.

- Về công khai và cung cấp kết quả kiểm toán, thực hiện quy định tại Ðiều 58 và 59 của Luật KTNN, Nghị định số 91/2008/NÐ-CP ngày 18-8-2008 của Chính phủ về công khai kết quả kiểm toán và kết quả thực hiện kết luận, kiến nghị kiểm toán của KTNN, định kỳ KTNN họp báo công bố công khai kết quả kiểm toán, kết quả thực hiện kết luận, kiến nghị kiểm toán, tạo được dư luận tốt cả trong và ngoài nước. Ngoài hình thức họp báo công bố kết quả kiểm toán năm, KTNN còn công bố kết quả của cuộc kiểm toán thông qua các hình thức họp báo hoặc đăng tải trên Trang thông tin điện tử và Tạp chí Kiểm toán theo quy định. Việc công bố công khai kết quả kiểm toán bảo đảm đúng pháp luật, không có sai sót, có tính định hướng là một hoạt động nổi bật của KTNN từ khi Luật KTNN có hiệu lực thi hành, được dư luận đồng tình và đánh giá cao. Các báo cáo kiểm toán định kỳ, đột xuất đều được báo cáo, gửi, cung cấp đầy đủ, kịp thời cho Quốc hội, Ủy ban Thường vụ Quốc hội, Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ, đơn vị được kiểm toán v.v. theo quy định của pháp luật. Ðồng thời với báo cáo kiểm toán, Tổng KTNN còn gửi công văn tới các Bộ trưởng, Chủ tịch UBND các tỉnh, thành phố, thủ trưởng các đơn vị được kiểm toán và các cơ quan hữu quan để thông báo và đề nghị thực hiện các kết luận, kiến nghị kiểm toán. Vì vậy, việc thực hiện và báo cáo, tổng hợp thực hiện kết luận, kiến nghị kiểm toán ngày càng đi vào thực chất và nền nếp hơn. Các báo cáo kiểm toán của KTNN đều được gửi đầy đủ và kịp thời đến Ban Chỉ đạo Trung ương về phòng, chống tham nhũng theo quy định của Luật Phòng, chống tham nhũng. Thực hiện Thông tư liên tịch (tháng 11-2007) về trao đổi, quản lý, sử dụng thông tin dữ liệu về phòng, chống tham nhũng, hằng quý KTNN cung cấp kết quả kiểm toán cho Thanh tra Chính phủ. KTNN đã chuyển nhiều hồ sơ, vụ việc có dấu hiệu vi phạm pháp luật của tổ chức, cá nhân cho cơ quan điều tra, kiểm tra Ðảng, Thanh tra Chính phủ và thanh tra của các bộ, ngành để điều tra, kiểm tra, xử lý theo thẩm quyền; chủ động hoặc cung cấp theo yêu cầu kết quả kiểm toán cho các cơ quan thanh tra, kiểm tra, giám sát của Ðảng và Nhà nước ở Trung ương cũng như địa phương. KTNN cũng cử nhiều lượt cán bộ cấp vụ, cấp phòng tham gia có hiệu quả các đoàn giám sát của Ủy ban Thường vụ Quốc hội, các Ủy ban của Quốc hội, các đoàn thanh tra, kiểm tra liên ngành của Ðảng và Nhà nước theo yêu cầu.

Tổng hợp kết quả kiểm toán 15 năm qua, KTNN đã phát hiện và kiến nghị xử lý tài chính với tổng số tiền 56.412 tỷ đồng, trong đó tăng thu về thuế và các khoản thu khác 14.858 tỷ đồng, giảm chi NSNN 7.838 tỷ đồng, ghi thu - ghi chi để quản lý qua NSNN 12.747 tỷ đồng và kiến nghị xử lý tài chính khác 20.969 tỷ đồng. Tính riêng năm năm gần đây, đã kiến nghị xử lý tài chính 46.455 tỷ đồng, trong đó tăng thu về thuế và các khoản thu khác 10.020 tỷ đồng, giảm chi NSNN 6.465 tỷ đồng, ghi thu - ghi chi để quản lý qua NSNN 9.001 tỷ đồng, kiến nghị xử lý tài chính khác 20.969 tỷ đồng.

KTNN đã kiến nghị sửa đổi, hoặc hủy bỏ hàng trăm văn bản quy phạm pháp luật sai quy định hoặc không còn phù hợp thực tế. Ðặc biệt, KTNN đã đề xuất nhiều ý kiến có giá trị để hoàn thiện nhiều văn bản quy phạm pháp luật, nhất là Luật NSNN 1996, 2002, Luật Bảo hiểm xã hội, Luật Thực hành tiết kiệm, chống lãng phí, Luật Phòng, chống tham nhũng... Ðây là những đóng góp thiết thực của KTNN với chức năng tư vấn của cơ quan kiểm tra tài chính Nhà nước.

Những năm qua, KTNN không ngừng thiết lập và phát triển quan hệ hợp tác với cơ quan Kiểm toán tối cao (SAI) của các nước trên thế giới, và các tổ chức quốc tế. Tháng 7-1996, KTNN Việt Nam trở thành thành viên chính thức của Tổ chức quốc tế các Cơ quan Kiểm toán tối cao (INTOSAI), từ tháng 1-1997, là thành viên chính thức của Tổ chức các Cơ quan Kiểm toán tối cao châu Á (ASOSAI) và từ tháng 1-2008 là quan sát viên thường trực của Tổ chức các Cơ quan Kiểm toán tối cao Khối các nước có sử dụng tiếng Pháp (AISCCUF). KTNN đã xây dựng và mở rộng quan hệ hợp tác song phương với hàng chục SAI trên thế giới và nhiều tổ chức quốc tế tại Việt Nam, trong đó nhiều SAI giữ vai trò chủ chốt trong INTOSAI và ASOSAI như: Trung Quốc, Ấn Ðộ, Hàn Quốc, Nhật Bản, Ðức, Nga, Hoa Kỳ, Vương quốc Anh, Ca-na-đa...; đã ký thỏa thuận hợp tác với Hiệp hội Kế toán viên công chứng Vương quốc Anh (ACCA) và với hơn 20 SAI của châu Á, châu Âu và châu Mỹ. KTNN đã chính thức nộp đơn đăng cai và đang tích cực vận động để đăng cai Ðại hội ASOSAI lần thứ 12 vào năm 2012 theo Ðề án đã được Chủ tịch Quốc hội phê duyệt. Ðặc biệt, từ năm 2009 cơ quan KTNN các nước Việt Nam, Cam-pu-chia và Lào đã bước đầu hình thành cơ chế đối thoại hợp tác ba bên theo sáng kiến của KTNN Việt Nam.

Với những thành tích xuất sắc đã đạt được, KTNN đã được Ðảng, Nhà nước tặng thưởng nhiều phần thưởng cao quý: một cá nhân được tặng Huân chương Ðộc lập hạng nhất; chín tập thể và 56 cá nhân được tặng Huân chương Lao động các loại; sáu tập thể cấp vụ được tặng Cờ thi đua của Thủ tướng Chính phủ; 27 tập thể và 54 cá nhân được tặng thưởng Bằng khen của Thủ tướng Chính phủ; một cá nhân được tặng danh hiệu "Chiến sĩ thi đua toàn quốc"; nhiều tập thể và cá nhân được Tổng KTNN tặng Cờ thi đua, Bằng khen và nhiều hình thức khen thưởng khác. Nhân dịp Kỷ niệm 15 năm Ngày thành lập, KTNN đã được tặng thưởng Huân chương Ðộc lập hạng ba.

Mặc dù những thành tựu, kết quả đạt được là toàn diện, quan trọng và rất căn bản nhưng tổ chức và hoạt động KTNN hạn chế và bất cập. Một là, quy mô kiểm toán còn rất nhỏ so với yêu cầu kiểm tra, kiểm soát các đối tượng sử dụng ngân sách, tiền và tài sản Nhà nước theo chức năng, nhiệm vụ được giao. Hai là, chất lượng kiểm toán và tiến độ kiểm toán còn khoảng cách không nhỏ so với yêu cầu. Ba là, hiệu lực kiểm toán chưa cao, việc thực hiện các kết luận, kiến nghị kiểm toán nhìn chung chưa đầy đủ và kịp thời; việc khai thác, sử dụng kết quả kiểm toán phục vụ cho công tác quản lý, điều hành, kiểm tra, giám sát nhìn chung còn hạn chế. Bốn là, việc giải quyết mối quan hệ giữa mở rộng quy mô, nâng cao chất lượng kiểm toán và yêu cầu giữ gìn đạo đức, phẩm chất cán bộ, KTV luôn là một thách thức lớn.

Những hạn chế và bất cập nói trên do nhiều nguyên nhân, cả khách quan và chủ quan. Thứ nhất, khuôn khổ pháp lý về tổ chức và hoạt động KTNN chưa tương thích, đầy đủ và đồng bộ, hiện vẫn chưa có quy định trong Hiến pháp địa vị pháp lý của KTNN như hầu hết các nước trên thế giới. Thứ hai, nhận thức của các cấp, các ngành, công chúng và xã hội nói chung về vị trí pháp lý, vai trò, tổ chức và chức năng, nhiệm vụ của KTNN còn chưa đầy đủ và toàn diện, thậm chí có lúc, có nơi còn sai lệch. Thứ ba, cơ cấu tổ chức vẫn đang trong quá trình hoàn thiện, chưa hoàn chỉnh, còn thiếu nhiều KTNN khu vực; số lượng và chất lượng đội ngũ cán bộ, công chức chưa tương xứng với chức năng, nhiệm vụ được giao. Thứ tư, nhiều vấn đề có tác động, ảnh hưởng đến hiệu lực, hiệu quả hoạt động KTNN đang trong quá trình hoàn thiện: hệ thống pháp luật về quản lý kinh tế - tài chính; cải cách tài chính công; hệ thống chuẩn mực, quy trình, phương pháp kiểm toán; cơ sở vật chất và phương tiện làm việc, chế độ chính sách đãi ngộ cho KTV còn bất cập; kết quả kiểm toán và các dữ liệu về kết quả kiểm toán chưa được khai thác và sử dụng thật sự hiệu quả... Thứ năm, chức năng, nhiệm vụ và cơ chế phối hợp công tác giữa các cơ quan thanh tra, kiểm tra, kiểm toán, giám sát còn thiếu hiệu quả, có lúc còn trùng dẫm. Thứ sáu, KTNN là cơ quan mới chưa có nhiều kinh nghiệm, nhiều việc vừa làm, vừa rút kinh nghiệm.

Từ thực tiễn hoạt động KTNN trong những năm qua, có thể rút ra những bài học kinh nghiệm cho tổ chức và hoạt động KTNN là:

Phải luôn quán triệt và thể chế hóa Nghị quyết của Ðảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước vào tổ chức và hoạt động KTNN, bảo đảm sự lãnh đạo của Ðảng, Quốc hội và Chính phủ để KTNN luôn hoạt động đúng định hướng, phục vụ đắc lực việc thực hiện mục tiêu phát triển kinh tế - xã hội từng thời kỳ.

Thường xuyên chú trọng tạo dựng khuôn khổ pháp lý và nghề nghiệp, các chuẩn mực, quy trình và phương pháp chuyên môn, nghiệp vụ cho tổ chức và hoạt động kiểm toán.

Bảo đảm trên thực tế tính độc lập của cơ quan KTNN và từng KTV Nhà nước. Tổ chức và hoạt động KTNN phải công khai, minh bạch, chuyên nghiệp, chính quy, từng bước hiện đại và luôn phải được quản lý, kiểm soát tốt để không ngừng tăng cường năng lực, hiệu lực và hiệu quả hoạt động.

Thường xuyên xây dựng và phát huy truyền thống đoàn kết, thống nhất, kiên trì chăm lo xây dựng đội ngũ cán bộ, công chức, KTV trong sạch, vững mạnh; chăm lo xây dựng hệ thống chính trị; thường xuyên quan tâm công tác phòng, chống tham nhũng, thực hành tiết kiệm, chống lãng phí trong nội bộ ngành; thường xuyên duy trì và đẩy mạnh phong trào thi đua yêu nước gắn với Cuộc vận động Học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh bằng nhiều hình thức sáng tạo, phù hợp với đặc thù hoạt động của ngành và quy định của Nhà nước.

Tăng cường và nâng cao hiệu quả phối hợp giữa KTNN với các cơ quan của Quốc hội; các bộ, ngành; cấp ủy và chính quyền các cấp cũng như với từng đơn vị được kiểm toán.

Tích cực, chủ động hội nhập quốc tế trong lĩnh vực KTNN trong khuôn khổ tổ chức ASOSAI và INTOSAI cũng như các thỏa thuận hợp tác song phương với các tổ chức quốc tế và cơ quan Kiểm toán tối cao trên thế giới, tăng cường vị thế của cơ quan KTNN Việt Nam trên trường quốc tế.

Quan tâm xây dựng hệ thống cơ sở vật chất, bảo đảm kinh phí và các điều kiện làm việc; hết lòng chăm lo đời sống vật chất, tinh thần nhằm tạo điều kiện làm việc và động lực để cán bộ, công chức, viên chức và người lao động yên tâm công tác, phát huy năng lực và sở trường, giữ gìn phẩm chất đạo đức trong thực thi công vụ.

Ðể hoàn thành chức năng, nhiệm vụ được giao, phát huy những thành tích đã đạt được, khắc phục những hạn chế và yếu kém, cần đồng thời phát triển KTNN cả về số lượng và chất lượng. Trong bối cảnh đẩy mạnh cải cách hành chính, tiến trình hội nhập kinh tế quốc tế của nước ta và xu thế hiện đại hóa KTNN trên thế giới hiện nay, trong giai đoạn năm năm tới cũng như định hướng lâu dài, KTNN cần hết sức coi trọng phát triển về chất lượng. Vì vậy để phát triển nhanh, bền vững, Chiến lược phát triển KTNN đến 2015, tầm nhìn đến 2020 đã trình Ủy ban Thường vụ Quốc hội xem xét, phê chuẩn với mục tiêu tổng quát là: "Nâng cao năng lực hoạt động, hiệu lực pháp lý, chất lượng và hiệu quả hoạt động của KTNN như một công cụ hữu hiệu của Nhà nước trong kiểm tra, giám sát quản lý và sử dụng ngân sách, tiền và tài sản Nhà nước; xây dựng KTNN có trình độ chuyên nghiệp cao, từng bước hiện đại, trở thành cơ quan kiểm tra tài chính công có trách nhiệm và uy tín, đáp ứng yêu cầu của sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước, phù hợp với các thông lệ và chuẩn mực quốc tế".

Ðể đạt được mục tiêu trên, định hướng và các giải pháp chính được xác định như sau: Một là, hoàn thiện cơ sở pháp lý tương xứng, đầy đủ và toàn diện cho tổ chức và hoạt động của KTNN; Hai là, tiếp tục phát triển, hoàn thiện tổ chức bộ máy KTNN trên cơ sở mô hình quản lý tập trung thống nhất như hiện nay, bao gồm các đơn vị tham mưu, các KTNN chuyên ngành ở Trung ương và các KTNN khu vực; Ba là, nâng cao chất lượng, phát triển đội ngũ cán bộ, công chức, viên chức đủ về số lượng, cơ cấu chuyên môn và cơ cấu ngạch hợp lý theo từng giai đoạn; Bốn là, nâng cao một cách toàn diện năng lực, hiệu lực và hiệu quả kiểm toán; Năm là, phát triển cơ sở vật chất và khoa học - công nghệ thông tin; Sáu là, tích cực hội nhập và hợp tác quốc tế về KTNN.

Mười lăm năm xây dựng và phát triển là một chặng đường tuy chưa dài song hết sức có ý nghĩa để hình thành và gây dựng hình ảnh của tổ chức, tạo dựng niềm tin. Các bộ, ngành, địa phương, các đơn vị được kiểm toán ngày càng nhận thức đầy đủ vị trí, vai trò, chức năng, nhiệm vụ của KTNN, ngày càng thấy được tác động tích cực của công tác kiểm toán đối với quản lý kinh tế - tài chính ở mỗi đơn vị cũng như tính minh bạch, bền vững của nền tài chính quốc gia, ngày càng thân thiện, ủng hộ và phối hợp tốt hơn với KTNN. Ðó chính là thành tựu rất có ý nghĩa của KTNN, là hạnh phúc lớn nhất của những người làm công tác kiểm toán Nhà nước. Tự hào với những kết quả đã đạt được, nhìn thẳng vào những tồn tại, yếu kém cán bộ, công chức, KTV, người lao động KTNN nguyện đồng lòng, đồng sức xây dựng KTNN trở thành cơ quan kiểm tra tài chính công có uy tín và có trách nhiệm với đất nước và cộng đồng quốc tế, xứng đáng với niềm tin và lòng mong đợi của Ðảng, Nhà nước và nhân dân.

Có thể bạn quan tâm