1. Nhà Sử thuê ở sát sông Hồng, giữa vườn chuối. Tên tự gọi là Bích Vân trai, nhưng bạn bè thì toàn trêu là trại Chuối, vì có vườn chuối rất to. Trong căn nhà ấy, thứ gì thừa nhất chắc là giấy, trên bàn dưới đất treo trên tường, chữ Hán, chữ Nôm khắp chốn. Tôi cứ tưởng tượng giống một giai thoại về Balzac, kẻ trộm vào nhà đại văn hào nửa đêm, ông nhổm dậy bảo: Anh đừng tìm tiền, ban ngày tôi còn chả tìm được nữa là. Trộm mà đến nhà Sử, có khi hoa mắt vì đống giấy bừa bãi, còn chủ nhà thì thò cổ ra khỏi màn thủng thẳng: Này, anh có thích thì tôi viết cho một bức thư pháp.
Nhưng viết thư pháp, hay thực hành thư pháp, là một thú vui. Còn ra mắt Lịch sử thư pháp, thì lại là chuyện lao động nghiêm túc theo kiểu khác. Tôi có đi theo Sử vài lần dập bia. Tức là lấy lại mẫu chữ trên các bia đá. Sở hữu một thác bản như thế, coi như là có đồ quý với những kẻ làm nghiên cứu. Nhưng bia đá các cụ hay “tréo nghoe”, khắc trên những vách cheo leo, nhìn cái dáng gầy gò leo trên giàn tre, người nhìn lên còn chóng mặt, cứ run run nghĩ mà trượt chân, từ trên cao 7-8m ngã xuống cũng đau phải biết. Để hoàn thành quyển sách, những chuyến điền dã trèo leo như vậy phải tính hàng trăm, cũng không tính cụ thể là bao lâu. Có lúc cũng phải chép miệng nuối tiếc. Như tác phẩm của Nguyễn Đình Giới (một danh sĩ đời Trần) trên chuông chùa Chiêu Quang. Chuông không rõ tông tích đã lâu, chỉ còn thác bản duy nhất trôi nổi trên “giang hồ”, Sử tìm được ảnh chụp qua mạng, nhưng lúc hỏi mua thì người ta đã bán mất. Giờ vẫn đang tìm cách liên hệ nhưng người ta không cho tiếp cận.
Mà để xong một quyển sách, thì đó chỉ là phần nhỏ thôi. Sử dành bốn năm viết sách, nhưng đấy là thời gian cơ học kể từ khi bắt tay vào thực hiện. Còn bỏ vào đó tâm huyết và những ngày tháng tuổi trẻ, và không phải là ra sách xong thì đã xong.
2. Quyển sách này, dù khẳng định “Lịch sử thư pháp Việt Nam dẫu không huy hoàng nhưng không thiếu những điểm sáng chói”, tôi thấy là một sự “giải thiêng” cho thư pháp. Lâu nay vì ít người quan tâm, ít người hiểu, nên thư pháp bỗng nhiên rất “thiêng”. Thành ra đọc Lịch sử thư pháp, mới thấy đó là bàn chuyện nghệ thuật ở quanh đây. “Thư pháp là nghệ thuật viết chữ. Nó xuất phát từ văn tự - mục đích sử dụng và chuyển tới định hướng thẩm mỹ. Nó là nghệ thuật giữa ranh giới văn tự và hội họa. Là phương thức nghiên cứu tâm lý và tính cách của người viết”, Sử quan niệm. Bởi vậy, thư pháp trong sách vượt ra câu chuyện của những mực tàu giấy đỏ, mà là câu chuyện giao lưu văn hóa nghệ thuật, là hồn cốt người Việt, là sử Việt. Đó có thể là dạng thư pháp bình dân nhất, được những người thợ dân gian viết trên gạch, ngói. Như chữ trên gạch thời Lý: “Tạo hình bút thế tương tự với thư phong Bắc Ngụy (Trung Quốc)”, có thể coi như một tác phẩm mang phong cách cổ điển. Hay chữ trên một cỗ chuông đúc năm 1093 cho thấy “lộ rõ sự sắc bén, kết cấu chữ thú vị”. Hoặc một tác giả vô danh viết Lệnh cấm trên núi Dục Thúy mà theo Sử: “Thư pháp thể hiện có phép tắc nghiêm cẩn nhưng không thiếu sinh động, bút pháp mạnh mẽ phóng túng…”. Còn kinh tràng chùa Phổ Minh, tuy không rõ tác giả nhưng “bút pháp hùng vĩ hồn hậu, kết thể đơn giản nhưng nhiều tư thái, bút tích thanh nhã”.
Hay lịch sử nước nhà qua câu chuyện năm 1334, thượng hoàng Trần Minh Tông thân chinh đi đánh Ai Lao, lấy Nguyễn Trung Ngạn làm Phát vận sứ Thanh Hóa, vận tải lương thực đi trước. Xa giá tới Châu Kiềm, Ai Lao nghe tin chạy trốn. Nguyễn Trung Ngạn vâng mệnh mài vách núi khắc chữ ghi công. “Chữ trấn biên cương là tác phẩm ma nhai lớn nhất thời kỳ này, tuy chỉ 154 chữ nhưng thư phong hồn hậu, thế chữ bay bổng, vận bút lại ổn định ham súc, phong cách rõ ràng” – trang 101. Hoặc tác phẩm Chinh phụ Đèo Cát Hãn, Lê Lợi viết năm 1432, chữ trên ma nhai “kết thể rộng lớn hùng vĩ, bút lực mạnh mẽ, xem bút tích có thể thấy khí phách bậc đế vương” (trang 126). Câu chuyện danh thần Nguyễn Cao qua nét bút của Nguyễn Văn Mại, chép lại Nguyễn Cao: Tự phận ca – bài thơ tuyệt mệnh của ông khi bị Pháp bắt: “Lối chữ hành tinh tế, tập trung triển khải thể chữ nghiêng về bên phải, thế chữ dẹt, vận bút nhanh chóng, cảm xúc mạnh mẽ” (trang 240).
3. Một bạn đọc nghe tên sách của Sử, bảo: “Hy vọng sau cuốn sách này những chữ Hán trên các đình chùa sẽ được gỡ đi mà thay vào đó là thư pháp Việt Nam”. Sử hoảng hốt. Quan niệm cực đoan đó, người làm nghiên cứu hẳn là sợ. Vì Lịch sử thư pháp Việt Nam, chính là thư pháp chữ Hán, từ thời Đông Sơn đến thời Nguyễn. “Theo tôi, một môn nghệ thuật muốn thực sự xác lập được mình, nó cần có ngôn ngữ, đặc biệt với thư pháp nó còn có yếu tố từ văn tự tới tạo hình. Sự phát triển rầm rộ của cái gọi là thư pháp Việt còn là câu chuyện rất dài. Bởi nó chưa xác lập được cho mình ngôn ngữ riêng, những cá tính riêng, tức là phảỉ có thẩm mỹ, có lập ngôn - đưa ra quan điểm. Nhưng thư pháp chữ quốc ngữ chưa làm được điều đó. phát triển ào ạt nhưng thế nào là đẹp chưa có khái niệm”, Sử nói.
Cuốn sách đầu tay, nên Sử “sẵn sàng nhận gạch đá”. Dẫu biết người ta đi mãi mới thành đường, nhưng tự đâm đầu vào mở một con đường, thì chẳng dễ đâu. Có điều tôi vẫn nghĩ người đời dẫu thừa rảnh rỗi quan tâm Hoàng Kiều, Ngọc Trinh, hay bàn chuyện tầm phào về những con rồng không đầu không cuối, cũng sẽ không ném đá sự tử tế. Ở góc độ nghiên cứu, để gọi tên phong cách nghiên cứu Nguyễn Sử qua Lịch sử thư pháp Việt Nam thì chưa được. Nhưng để làm một công trình như thế này, về nghệ thuật này, đã có mấy người? Nhà nghiên cứu Phan Cẩm Thượng nói: “Việt Nam cũng là đất nước dùng chữ Hán, ít nhất 2.000 năm qua, nhưng thực sự đến nay không có một nghiên cứu nào có hệ thống về thư pháp, có chăng chỉ là những ngâm ngợi hoài cổ lặt vặt”. Điều đáng kể nhất ở quyển sách, là thái độ khách quan và chừng mực trước di sản nghệ thuật ông cha. Không nâng tầm cao siêu, cũng không bi quan hóa - thứ bi quan mà nhà nghiên cứu Phan Cẩm Thượng từng nói: “Những thành tựu nghệ thuật thư pháp Trung Hoa từng gây ra mặc cảm nhất định cho những người viết thư pháp ngoài Trung Hoa”. Nhưng đủ để hiểu, trong suốt mấy nghìn năm chữ nghĩa, tiền nhân đã để lại không ít tinh hoa.
Tôi chưa bao giờ hỏi Sử tại sao lại chọn đề tài đó. Có một số kiểu người, tự mình gánh lấy một trách nhiệm, và đến độ, thì cứ phải thực hiện nó mà thôi. Viết xong Lịch sử thư pháp, trả lời câu hỏi: thư pháp Việt Nam ở đâu, trước tiên là trả lời chính bản thân mình. Sau nữa, là thực hiện một cái nghiệp “giời đày”, đi mở lối để phá bỏ những ý nghĩ định kiến.
| “Việc sử dụng chữ Hán để làm một phương thức biểu đạt tình cảm, phong cách của người Việt Nam cũng sẽ khác với người Nhật, Trung, Hàn. Người Nhật phát triển lối chữ riêng. nhưng chủ đạo vẫn là thư pháp chữ Hán. Người Hàn có chữ nhưng cũng ít sử dụng mà sáng tác thư pháp là chữ Hán luôn. Người Việt cũng có phong cách riêng của mình ở một số triều đại như nhà Lê. Còn phong cách là của cá nhân thì nhiều lắm” - Nguyễn Sử. Nguyễn Sử (sinh năm 1986), tốt nghiệp Đại học Sư phạm Phúc Kiến, Trung Quốc, hiện làm việc tại Phòng nghiên cứu Phật giáo - Viện nghiên cứu Tôn giáo. Lịch sử thư pháp Việt Nam do NXB Thế giới và Nhã Nam phát hành. |