ND-Nhân dân xã Liệp Tuyết, huyện Quốc Oai, Hà Nội đã mạnh dạn bước qua lời nguyền cổ xưa, để gìn giữ một di sản văn hóa phi vật thể truyền thống - hát Dô.
Truyền thuyết hội hát Dô
Tương truyền trong một chuyến du xuân, Thánh Tản Viên, một trong bốn vị Tứ bất tử của Việt Nam, đã dừng chân ở đất Liệp Hạ (xã Liệp Tuyết ngày nay). Ðây là nơi phong cảnh sông nước hữu tình, đất đai màu mỡ. Yêu cảnh, mến người, Thánh dừng chân thưởng ngoạn. Thấy đất đai cảnh vật tốt tươi, nhân dân cần cù, Thánh liền dạy họ cách gieo trồng lúa, ngô trên những thửa ruộng có phù sa bồi đắp. Thánh dạy dân đắp đê, làm thủy lợi. Xong công việc Thánh ra đi, hứa sẽ quay lại khi lúa chín. Năm đó nhân dân được mùa to.
Nhớ công lao to lớn của Thánh, cứ đến mùa thu hoạch hằng năm, nhân dân ngóng trông Thánh trở lại, nhưng đều biệt tăm. Ðúng 36 năm sau, Thánh Tản Viên mới trở lại thăm dân làng. Ngài rất hài lòng nhận thấy cuộc sống của người dân đã no đủ, mùa màng bội thu. Năm ấy dân làng rất vui, múa hát tưng bừng. Dân làng xây lên đền Khánh Xuân, còn gọi là Xuân Ca Cung, để thờ Thánh và mở hội hát mừng Ngài. Thánh lại dạy họ cách hát bài bản, từ đó điệu hát Dô ra đời.
Ðể ghi nhớ công lao của Tản Viên Sơn Thánh, cứ 36 năm nhân dân Liệp Tuyết lại mở hội hát Dô một lần. Lễ hội hát Dô thường được tổ chức từ mồng 10 đến rằm tháng giêng Âm lịch. Lễ hội hát Dô gắn liền với nông lịch, được tổ chức vào mùa xuân, mùa đâm chồi nảy lộc, sinh sôi, biểu hiện cho mùa màng bội thu.
Tương truyền rằng những bài hát trong hội là do Thánh dạy, được ghi thành sách là Quốc nhạc diễn ca nên chỉ hát vào đúng dịp hội (từ 10 đến rằm tháng giêng). Dân làng tin rằng hết hội phải cất sách vào hòm, không ai được hát. Nếu người nào cố tình vi phạm sẽ bị Ngài giáng tội như méo mồm hoặc bị câm.
Chính do lời nguyền trong truyền thuyết ấy, cũng như chu kỳ 36 năm một lần mở hội là thời gian quá lâu, khiến cho những làn điệu hát Dô không phát triển rộng rãi được như dân ca các vùng khác.
Linh ca và tình ca của người lao động
Hát Dô có hai thể loại: linh ca (còn gọi là hát chúc) và tình ca (bỏ bộ). Linh ca là những bài ca có tính linh thiêng, hát ở trong đình, chùa vào dịp lễ hội, lời ca hầu như không thay đổi theo thời gian. Tình ca là những bài ca thể hiện tình cảm nam nữ, nói lên những mơ ước của nhân dân lao động, và niềm tin của con người vào thế giới siêu nhiên.
Lối hát Dô theo hình thức truyền miệng dễ nhớ, âm nhạc tồn tại dưới bốn thể loại: hát nói, hát ngâm, hình thức xô và hình thức ca khúc. Lời những bài hát này hiện nay đều có văn bản ghi lại, những bản hát Dô gốc sớm nhất được chép vào năm 1916, dưới thời vua Khải Ðịnh.
Hiện nay có một số bài hát Dô thường được dân làng hát như Hái Hoa, Chơi Qua Bãi Cát, Chèo Thuyền, Xuân Sang Hè, Trúc Mai, Lên Chùa và Muỗi Ðốt Tứ Tung...
Nhạc cụ chỉ đơn giản là một đôi sênh do Ông cái gõ điều khiển. Ông cái là một nam thanh niên có diện mạo khôi ngô, có giọng hát trong. Các làng thường lập những đội hát gồm các thiếu nữ từ 13 đến 20 tuổi để chuẩn bị cho ngày hội. Trong mỗi đội hát chỉ có một Ông cái là nam giới, còn lại là 24 nữ gọi là bạn nàng hay con hát. Khi vào hát, người cái cũng như các bạn nàng đều phải trong sạch không vướng việc tang hay việc buồn gì khác... Trình tự cuộc hát: Ông cái dẫn các bạn nàng vào đứng thành hình chữ V trước đền. Sau đó Ông cái dùng tiếng sênh gõ nhịp làm hiệu dẫn các bạn nàng vào trước bàn thờ. Câu mở đầu là những lời hát chúc của Ông cái. Khi nghe tiếng sênh mở đầu làm hiệu các bạn nàng bỏ dép bước vào chiếu.
Các đội hát của các thôn lần lượt vào hát theo thứ tự đã ghi trong văn bản. Cuộc hát thường bắt đầu từ sáng sớm đến trưa mới khắp lượt các thôn.
Khôi phục vốn xưa
Vì nhiều nguyên nhân như chiến tranh và đói nghèo, lễ hội hát Dô gần như đã thất truyền. Với đặc trưng chu kỳ 36 năm một lần, một đời người ta chỉ có thể dự hội được hai lần. Ðây chính là điều chị Nguyễn Thị Lan, một nghệ nhân hát Dô địa phương luôn trăn trở làm sao duy trì được nghệ thuật cổ truyền này. Sinh ra và lớn lên tại xã Liệp Tuyết, chị Lan từng là Hội trưởng Hội Phụ nữ xã. Ðược sự nhiệt tình ủng hộ của lãnh đạo xã, chị đã dũng cảm "vượt qua lời nguyền cổ" để sưu tầm và phục dựng các bài ca cổ. "Ban đầu, việc này rất khó, chúng tôi phải cố vận động bà con thay đổi nếp nghĩ đã hàng trăm năm" - chị cho biết.
Năm 1989, chị Lan cùng các cán bộ văn hóa tỉnh và xã đến vận động từng cụ bô lão trong vùng, những người còn nhớ những làn điệu cổ. Nhưng các cụ thẳng thừng từ chối. Dân làng sợ bị Thánh Tản Viên trừng phạt, cũng lên tiếng phản đối họ.
Nhưng chị Lan đã rất kiên trì vận động các cụ già. Cuối cùng, các bô lão đồng ý truyền dạy lại cho nhóm chị Lan các làn điệu hát cổ.
Cụ bà Kiều Thị Hạnh, 89 tuổi, là người duy nhất còn sống trong số những người đã hát tại hội hát Dô cuối cùng năm 1926. "Hồi ấy tôi còn là con gái trẻ. Tôi không bao giờ quên được những hình ảnh của ngày hội ấy, vẫn còn hiện rõ trong tâm trí tôi" - cụ cho biết. Ngày nay, cụ bà vẫn thường ra thăm đền Khánh Xuân, xem lớp trẻ luyện tập.
Khi câu lạc bộ hát Dô của xã được thành lập vào năm 1990, câu lạc bộ có 25 thành viên. Hiện nay câu lạc bộ đã tập hợp được 50 thành viên chính thức, đều là những hạt nhân văn nghệ của xã. Câu lạc bộ đã tham gia nhiều hội diễn của huyện, tỉnh và đoạt nhiều giải thưởng bằng những làn điệu hát Dô truyền thống.
Với lòng trân trọng vốn hát cổ của cha ông để lại, anh chị em đều nhiệt tình luyện tập các làn điệu cổ để mỗi dịp Xuân về phục vụ bà con. Ông Ðỗ Hữu Tường, Trưởng Ban Văn hóa - Thông tin xã Liệp Tuyết nói: "Nhằm gìn giữ và phát triển loại hình dân ca nghi lễ được coi là cổ nhất của người Việt này, UBND xã sẽ tạo điều kiện mở hội hằng năm cho nhân dân các làng so tài. Ðây là điều kiện rất thuận lợi để bảo tồn, phát triển, tránh thất truyền vì chu kỳ truyền thống để tổ chức một hội hát Dô trước đây là 36 năm".
Chị Lan cho biết, từ năm 1989 đến nay, câu lạc bộ đã tổ chức được các lớp học hát đều đặn hằng năm, mỗi lớp thu hút từ 30 đến 50 học viên. "Chúng tôi đã sưu tầm lại được 36 làn điệu hát chúc (linh ca) cổ. Các em học viên cũng đã hát thành thục được 12 trong số 22 bài bỏ bộ. Tôi rất mừng vì các cháu thiếu nhi bây giờ cũng đã hát tròn vành rõ chữ một số bài hát Dô. Chính điều này cho thấy sức sống mãnh liệt của nghệ thuật dân ca này" - chị Lan nói.
Cùng với các làn điệu dân ca của vùng đồng bằng sông Hồng, hát Dô góp phần làm phong phú thêm đời sống tinh thần của người dân Việt Nam từ thuở sơ khai. Có thể coi đây như những viên ngọc quý trong di sản văn hóa dân tộc, giúp chúng ta hiểu rõ hơn cuộc sống lao động, tình cảm của ông cha từ thuở xa xưa qua những lời ca, điệu múa giản dị, mộc mạc mà thấm đẫm tình người.
HOÀNG TRUNG HIẾU