Những người “giữ lửa” cho công tác phòng, chống HIV/AIDS ở Việt Nam
Đến hết năm 2024, cả nước ghi nhận 245.762 người nhiễm HIV còn sống và 116.004 người nhiễm HIV tử vong lũy tích. Dịch HIV diễn biến phức tạp tại phía nam, với hơn 40% số ca nhiễm mới là nhóm người MSM. Công tác phòng, chống HIV/AIDS vẫn còn lỗ hổng lớn khi số người nhiễm mới vẫn cao, tỷ lệ biết tình trạng chưa đạt mục tiêu, nhiều hạn chế trong tiếp cận nhóm nguy cơ cao.
Năm 2025, Việt Nam chọn chủ đề “Đoàn kết là sức mạnh – Chung tay chấm dứt dịch bệnh AIDS” – một lần nữa, kêu gọi sự vào cuộc của cả cộng đồng. Trong hành trình này, dù các nguồn lực tài chính đang giảm dần, Việt Nam vẫn đang nỗ lực có những giải pháp để lấp đi những khoảng trống trong công tác phòng, chống HIV. Trong hành trình ấy, có nhiều người vẫn chọn ở lại một cách thầm lặng, vì một cộng đồng không còn HIV.
Bài 1: Những "chiến binh không tên" trong cuộc phòng, chống HIV/AIDS
Khi còn sự đồng hành của các nhóm đồng đẳng (CBO), trung bình mỗi tháng, chị Phạm Thị Ngọc Lan tiếp nhận 15–18 trường hợp mới. Từ khi không còn CBO, mỗi tháng, cơ sở của chị chỉ còn tiếp nhận khoảng 5–6 ca, có tháng hoàn toàn không có. "Nhóm nam quan hệ tình dục đồng giới chiếm phần lớn nguy cơ nhưng họ rất ít tự nguyện đến cơ sở y tế nếu không có các cộng tác viên giới thiệu”, vừa nhanh tay xếp chồng hồ sơ, chị Lan - người đã có hơn 7 năm tư vấn, xét nghiệm HIV tại Kiên Giang nói đầy tâm tư.
Phụ trách ở địa bàn trọng điểm về HIV tại tỉnh Kiên Giang, những năm trước, chị Lan bận rộn hơn nhiều khi nguồn khách hàng mà CBO mang đến ngày một đông và rất tuân thủ điều trị. Nhờ đó, tỷ lệ ca nhiễm mới có tăng nhưng không đột biến. Việc đưa được các đối tượng nguy cơ vào điều trị PrEP và trường hợp dương tính vào điều trị ARV kịp thời. Nhưng khi nguồn kinh phí gần như không còn, các nhóm đồng đẳng cũng không còn hoạt động mạnh như trước, thì phòng khám nơi chị làm việc dần thưa bóng khách hàng.
Tranh thủ giờ nghỉ ít phút, chị Lan tâm sự, trước đây, mỗi khi khách hàng được CBO giới thiệu đến, CDC sẽ có một phần quà hỗ trợ cho các bạn để tiếp thêm động lực cho các bạn đồng đẳng viên tìm kiếm khách hàng.
Nhưng từ năm 2025, khi viện trợ của các dự án quốc tế giảm dần, các nguồn viện trợ bao cao su, test nhanh và PrEP (thuốc dự phòng trước phơi nhiễm) trước đây được tài trợ miễn phí giảm mạnh. Công tác truyền thông, tầm soát cộng đồng cũng giảm đi rõ rệt. Một số người vẫn sợ kỳ thị, sợ bị phát hiện, nên không dám đến cơ sở y tế công lập xét nghiệm.
“Số ca đến khám chủ động, chủ yếu là những nam, nữ quan hệ tình dục bình thường, rất ít khách hàng là MSM. Nhân viên y tế dù có chuyên môn nhưng khó khai thác được thông tin thật, còn CBO thì khác, họ là người trong cộng đồng, dễ tạo lòng tin và kết nối điều trị thì lại không còn mấy người mặn mà”, chị Lan chùng giọng nói.
Sự thiếu hụt đó tạo ra một khoảng trống trong công tác phát hiện ca nhiễm mới và làm mất dần đi điểm tựa cho cộng đồng nhóm yếu thế trước HIV. “Chúng tôi chứng kiến nhiều gia đình sốc khi biết con nhiễm HIV, có người còn từ chối nhận con cái. Nếu không có các bạn CBO đứng ra hỗ trợ, đưa đi điều trị và hỗ trợ các em phần nào, sẽ có nhiều em bị bỏ mặc đến cuối đời”, chị Lan tâm sự.
Giở tập hồ sơ quản lý một bệnh nhân mới vừa phát hiện nhiễm HIV, chị Lan chua xót kể về cậu bé mới học lớp 9. Cậu học trò này đã được các CBO và cán bộ y tế tại đây đưa vào theo dõi, gọi điện tư vấn thường xuyên nên đi làm xét nghiệm khẳng định và sử dụng PrEP. Nhưng suốt 3 năm trời, chàng trai trẻ khất lần, cho tới khi thấy biểu hiện suy kiệt, có nốt sùi, da sạm đen… mới chấp nhận đi khám. “Em ấy đến thật sự muộn, khi virus đã bắt đầu tàn phá cơ thể. Mình coi em ấy như con cháu, khuyên can hết điều mà có nghe đâu. Thương lắm”, chị Lan run run bờ môi, mắt ứa nước.
Địa bàn Kiên Giang có biến động dân cư lớn, nhiều người di cư hoặc khách du lịch qua lại khiến việc quản lý, giám sát dịch càng thêm khó khăn. Ngồi phòng khám, chứng kiến bao mảnh đời, bao nỗi sợ hãi và bao cảm xúc tiêu cực đến từ các em trẻ, đặc biệt là các em MSM, chị Lan trở thành người thân bất đắc dĩ của họ. Không chỉ là “chị Thanh Tâm” với các em và các gia đình, những nhân viên y tế như chị Lan còn gom góp tiền mua bảo hiểm; cho tiền các em đi xe khách về quê…
Khi không còn điểm tựa từ cộng đồng, những cán bộ y tế như chị Lan vẫn đi vận động, vẫn gọi điện cho từng người bệnh để nhắc uống thuốc; tư vấn cho đối tượng nguy cơ nhưng cũng không thể làm xuể.
Tình trạng này cũng gặp ở nhiều địa phương, trong đó có tỉnh Đồng Tháp. Bác sĩ Nguyễn Ngọc Quý, Phó Trưởng Khoa Phòng, chống HIV/AIDS (Trung tâm kiểm soát bệnh tật tỉnh Đồng Tháp) chia sẻ, trong những năm gần đây, số tiêm chích ma túy và mại dâm không phát hiện mới, nhưng nổi bật lên là nhóm MSM. Trong 9 tháng đầu năm 2025 tỉnh ghi nhận 21 ca nhiễm mới HIV (2 ca ngoại tỉnh) trong đó nhóm MSM chiếm 52,3%; huyện Lấp Vò có số ca nhiễm mới nhiều nhất 3 ca (MSM) tiếp đến là huyện Lai Vung 2 ca (MSM).
Sụt giảm mạnh tỷ lệ MSM đến khám, tư vấn từ đầu năm đến nay khiến các cơ sở điều trị tại Đồng Tháp khá đau đầu. Năm 2024, tỉnh Đồng Tháp cũ có 8 phòng khám PrEP, trong đó có 2 phòng khám của Nhà nước và 6 phòng khám tư nhân. Đồng Tháp từng là điểm sáng về công tác dự phòng với số khách hàng đang quản lý, số khách hàng sử dụng Prep ít nhất một lần là 828 trường hợp, tỷ lệ duy trì 3 tháng là 85,5%, cao so với quy định chung của phòng bệnh. Nhưng từ khi dự án bị cắt giảm kinh phí thì hầu như số khách hàng tiếp cận, chuyển gửi phòng khám PrEP tại địa phương này bị chững lại.
Bác sĩ Quý cho biết, trước đây, với sự hỗ trợ của USAID (Cơ quan Phát triển Quốc tế Hoa Kỳ), các doanh nghiệp xã hội, CBO hoạt động tích cực, giới thiệu khách hàng đến dịch vụ Prep rất cao khoảng 1.200 trường hợp, nhưng 9 tháng đầu năm nay, số khách hàng tham gia điều trị dự phòng PrEP chỉ dưới 600, giảm phân nửa so với trước.
Đồng Tháp có 2 doanh nghiệp xã hội cũng đã thoái trào khi không còn nguồn hỗ trợ. Nhóm CBO cũng rút về hoạt động cầm chừng. Điều này tạo ra thách thức khi hình thái lây nhiễm trên tỉnh chiếm hơn nửa là trong nhóm MSM.
"Khi có các CBO và doanh nghiệp xã hội, nhóm MSM đến với chúng tôi đều đã có ý thức chuyển đổi hành vi nguy cơ sang hành vi an toàn, nên việc điều trị rất tích cực. Nhưng nay, khi thiếu hụt lực lượng này, nhiều khách hàng đến với chúng tôi ở giai đoạn muộn, đã tiến triển sang AIDS, việc điều trị vô cùng gian nan”, bác sĩ Quý chia sẻ.
Dẫn chứng về vai trò của CBO, bác sĩ Quý chia sẻ về một trường hợp trẻ được CBO đưa đến khám trong tình trạng HIV tiến triển sang giai đoạn AIDS. Bệnh nhân bị nhiễm trùng cơ hội, zona, viêm da và gần như thời gian sống khỏe mạnh rất ngắn ngủi. Bệnh nhân có gia đình, nhưng từng quan hệ tình dục không an toàn với một người đồng giới, và đó là lý do anh không dám chia sẻ điều này với ai nhiều năm trời, cho tới khi gặp được một bạn CBO. Từ 60kg, bệnh nhân tụt xuống 40kg, không đi lại được. Chỉ trong 2 tháng điều trị, bệnh nhân nặng cân dần lên, sức khỏe tốt hơn, tải lượng virus cải thiện và anh đã hòa nhập với cuộc sống bình thường.
“Nếu người bệnh không được CBO đưa đến sớm, có thể chỉ sau một tuần đã tử vong. Nhờ điều trị kịp thời, anh ấy đã quay lại làm việc bình thường. Mỗi trường hợp khỏe mạnh, với chúng tôi vui như người thân mình vượt qua được bạo bệnh. Chỉ mong là các bạn ấy biết tình trạng bệnh và nguy cơ nhiễm bệnh mà đến sớm chừng nào, tốt chừng ấy cho cuộc đời các em”, bác sĩ Quý tâm sự.
Trong chuyến đi thực tế tại tỉnh Kiên Giang năm 2024, bà Võ Thị Lợt, Phó Giám đốc Trung tâm Kiểm soát bệnh tật (CDC) tỉnh Kiên Giang chia sẻ với chúng tôi, việc tiếp cận nhóm MSM của CDC địa phương rất khó. Do đó, các đồng đẳng viên là cánh tay nối dài của cán bộ y tế trong việc tiếp cận những đối tượng này để chia sẻ kiến thức về nguy cơ lây nhiễm HIV nếu không có các biện pháp bảo vệ bản thân an toàn.
Đến năm 2024, tỉnh đã xây dựng lực lượng truyền thông viên đồng đẳng/tiếp cận cộng đồng các nhóm là 69 người, trong đó có cả những bạn nhiễm HIV. Công tác can thiệp giảm tác hại được duy trì thực hiện, tập trung cho nhóm người có hành vi nguy cơ cao lây nhiễm HIV cao. Tuy nhiên, khi nguồn kinh phí giảm dần, lực lượng này cũng đã “bỏ nghề” đi mưu sinh.
Một người nhiễm HIV có khả năng 2,5 người bạn tình. Tỷ lệ đồng nhiễm của nhóm MSM là khoảng 70%, như vậy có 3 MSM thì có 2 ca nhiễm HIV. Nếu không tư vấn về tình dục an toàn và sử dụng thuốc dự phòng, nguy cơ lây nhiễm chiếm tỷ lệ cao vọt. Nhiều trường hợp nhiễm HIV mới tuổi thiếu niên, vị thành niên cho thấy việc giáo dục giới tính, sự đồng hành cộng đồng vẫn còn hạn chế.
Phát hiện sớm, hạn chế tối đa phát hiện trễ là một câu chuyện nan giải cho ngành y tế trong mục tiêu tiến tới chấm dứt HIV/AIDS vào năm 2030. PrEP có hiệu quả dự phòng lên 96%, nhưng để những đối tượng nguy cơ sử dụng "vaccine" phòng HIV thì công tác này phụ thuộc rất lớn vào cộng đồng. Vì thế, khi họ ngừng hoạt động, cán bộ y tế không chỉ mất một cánh tay nối dài, mà người bệnh cũng mất một điểm tựa tinh thần.
Hơn 30 năm công tác trong lĩnh vực điều trị HIV/AIDS, bác sĩ Quý nhấn mạnh, không có lực lượng nào để có thể tiếp cận giới thiệu cho nhóm MSM tốt nhất là các doanh nghiệp xã hội và CBO. Cán bộ y tế không cùng cộng đồng, nên việc tiếp cận và tạo niềm tin với nhóm nguy cơ (như MSM, người sử dụng ma túy, phụ nữ mại dâm…) rất khó khăn.
Trong khi đó, các nhóm MSM thường ngại đến cơ sở y tế công lập vì sợ lộ danh tính, sợ kỳ thị, nên khi không có CBO giới thiệu hoặc kết nối, số ca xét nghiệm mới giảm mạnh. Điều này dẫn đến tỷ lệ phát hiện trễ, khiến công tác điều trị và khống chế dịch khó khăn hơn.
“CBO chính là “cánh tay nối dài” của ngành y tế trong truyền thông, phát bao cao su, kit xét nghiệm nhanh, tư vấn PrEP, ARV. Các bạn có cùng cảnh ngộ nên dễ dàng tiếp cận. Khi thiếu vắng lực lượng này, sẽ rất khó khăn trong tìm kiếm, giới thiệu, chuyển gửi khách hàng. Chúng tôi đã thấu hiểu việc đó nhiều năm qua khi hình thái lây nhiễm tăng mạnh trong nhóm MSM”, bác sĩ Quý chia sẻ.
Những khoảng trống khi không có cộng tác viên cộng đồng hỗ trợ nhắc nhở, theo dõi tuân thủ thuốc đó khiến cán bộ y tế phải vừa khám, vừa tư vấn, vừa vận động người bệnh duy trì điều trị. Điều này cho thấy, cán bộ phòng, chống HIV tại địa phương đang thiếu hệ thống hỗ trợ bền vững trong phát hiện và quản lý đối tượng nguy cơ lây nhiễm HIV.
Để có sự vào cuộc mạnh mẽ của các nhóm MSM, việc có kinh phí bù đắp rất cần thiết cho khoảng trống dự phòng khi các dự án hỗ trợ đã cắt giảm nguồn kinh phí, đặc biệt hỗ trợ cho 2 nhóm đối tượng rất quan tâm là đến tuyến cơ sở người đang trực tiếp ở tại địa phương và hai là nhóm doanh nghiệp xã hội, CBO.
Một thực tế mà cán bộ Cục Phòng bệnh (Phòng, chống HIV/AIDS trước khi sáp nhập) chia sẻ với chúng tôi trong những chuyến điền dã về “rốn dịch HIV” tại các tỉnh phía nam, rằng: Số phòng khám công lập HIV/AIDS chiếm khoảng 80% nhưng lượng khách hàng chỉ chiếm 20%. Trong khi đó, phòng khám tư nhân chiếm 20% nhưng bao trùm 80% khách hàng. Sợ kỳ thị và muốn ẩn danh tính, bận rộn chỉ có thể khám ngoài giờ… là những lý do chính khiến nhiều bạn trẻ không tin vào phòng khám công lập.
Hệ thống y tế công lập ngày càng gặp nhiều thách thức khi y tế tư nhân giảm dần, CBO, cộng tác viên rời bỏ. Thực tế cho thấy, muốn tiến tới chấm dứt HIV vào năm 2030, cần không chỉ thuốc và kỹ thuật, mà cả niềm tin và sự đồng hành nhân ái của cộng đồng.