Tuy nhiên, trên thực tế chất lượng đào tạo nghề và chất lượng lao động còn thấp, chưa đáp ứng nhu cầu phát triển kinh tế - xã hội của địa phương.
Sóc Trăng hiện có nguồn lao động khá dồi dào, với hơn 700 nghìn người, trong đó phần lớn là lao động ở nông thôn. Vì vậy, đào tạo nghề và giải quyết việc làm cho người lao động, nhất là lao động nông thôn, vùng đồng bào dân tộc Khmer luôn được tỉnh, các ngành chức năng quan tâm. Ðể tạo điều kiện thuận lợi cho người lao động tham gia học nghề, Sóc Trăng đã phát triển mạng lưới, quy mô đào tạo nghề đa dạng, với một trường cao đẳng nghề, một trung tâm giới thiệu việc làm, một trường trung học chuyên nghiệp có dạy nghề, chín trung tâm dạy nghề (TTDN ) cấp huyện, thành phố, một phân hiệu trường cao đẳng nghề ngoài công lập và hơn 200 tổ chức, cá nhân cùng nhiều làng nghề truyền thống tham gia dạy nghề. Các cơ sở dạy nghề được trang bị khá đầy đủ phương tiện thiết bị phục vụ cho đào tạo nghề.
Ðể thực hiện mục tiêu đào tạo nghề, hằng năm, các cơ sở dạy nghề liên kết với nhiều TTDN của các tỉnh bạn mở lớp đào tạo nghề ngắn hạn cho những lao động có nhu cầu học nghề tại địa phương. Ðồng thời mở các lớp đào tạo nghề dài hạn, chính quy có bậc thợ từ 2/7 trở lên. Những ngành nghề được chọn lựa đều cần thiết cho yêu cầu phát triển kinh tế-xã hội của địa phương, nhu cầu sử dụng lao động của các doanh nghiệp và nhu cầu chuyển dịch cơ cấu lao động ở nông thôn, nhất là phục vụ cho xuất khẩu lao động.
Giám đốc Sở Lao động, Thương binh và Xã hội (LÐ-TB và XH) tỉnh Sóc Trăng Phan Văn Thắng, cho biết: "Giải quyết việc làm cho lao động nông thôn, đồng bào dân tộc Khmer là bức thiết. Từ năm 2006 đến nay, cả tỉnh có 52.500 lao động được đào tạo nghề, nâng tỷ lệ lao động qua đào tạo nghề tăng từ 10,15% năm 2006 lên 17,67% năm 2008, trong đó có 1.550 lao động (dân tộc Khmer 717 người) được tuyển chọn đi làm việc có thời hạn ở nước ngoài. Kết quả này góp phần giải quyết đáng kể tình trạng thất nghiệp, thiếu việc làm ở khu vực thành thị và nông thôn, đồng thời nâng cao tỷ lệ sử dụng thời gian lao động nông nghiệp ở nông thôn. Nhờ được đào tạo nghề, có việc làm ổn định, tăng thu nhập cho người lao động, Sóc Trăng đã giảm tỷ lệ hộ nghèo từ 24,73% năm 2006 xuống còn 16,02% năm 2008".
Tuy nhiên, so với nhu cầu và thị trường lao động hiện nay thì chất lượng đào tạo nghề và chất lượng nguồn lao động còn thấp, chỉ mới đáp ứng phần nào nhu cầu xã hội. Thực tế, trên thị trường lao động đã có nhiều doanh nghiệp không tuyển được lao động có tay nghề cao, phù hợp yêu cầu sản xuất hiện đại vào làm việc cũng như tuyển dụng cho xuất khẩu lao động. Việc đào tạo nghề chưa gắn kết chặt chẽ với nhu cầu sử dụng lao động, nên số lao động sau học nghề chưa có việc làm chiếm tỷ lệ khá cao, khoảng 30%. Ðiều đáng lo ngại hơn, số lao động được đào tạo làm việc ở các doanh nghiệp có kỷ luật cao thiếu ý thức cầu tiến, nản chí, tự ý bỏ việc rất nhiều, có lúc lên đến 60%. Ðó là chưa kể khá nhiều lao động sau khi học nghề được tuyển chọn đi làm việc có thời hạn ở nước ngoài phải hủy hợp đồng sớm, do không đáp ứng được những yêu cầu của nhà tuyển dụng.
Theo đánh giá của cơ quan chức năng, nguyên nhân dẫn đến thực trạng này trước hết là công tác đào tạo nghề chưa phù hợp với kế hoạch đào tạo nguồn nhân lực của tỉnh. Vì vậy, các cơ sở dạy nghề chưa thu hút lao động đến học nghề, và chưa yên tâm về việc làm sau khi học nghề. Ðể được hành nghề và sống được với nghề, người lao động phải học thêm để nâng cao tay nghề, có vốn để đầu tư sản xuất, kinh doanh... nhưng chưa được ngân hàng, chính quyền địa phương tạo điều kiện hỗ trợ vốn vay. Mặt khác, việc tổ chức đào tạo nghề ngắn hạn, dài hạn ở nhiều TTDN hiện nay còn nặng tính hình thức, ngành nghề đào tạo đơn điệu, chủ yếu là cắt may gia dụng, sửa chữa xe gắn máy, tin học, cắt tóc, đan lát.
Ðể sớm khắc phục những hạn chế nêu trên, Sở LÐ-TB và XH Sóc Trăng đề ra mục tiêu, là tiếp tục tập trung đào tạo, đào tạo lại và bồi dưỡng lao động có chuyên môn kỹ thuật với chất lượng cao; có quy mô, cơ cấu ngành nghề hợp lý đáp ứng nhu cầu sự nghiệp CNH - HÐH nông nghiệp nông thôn và nhu cầu của người sử dụng lao động, nhất là hướng tới thị trường xuất khẩu lao động. Nâng cao hiệu quả đào tạo nghề gắn với giải quyết việc làm, tăng tỷ lệ lao động có việc làm sau khi được đào tạo nghề. Khuyến khích, tạo điều kiện thuận lợi cho các tổ chức, cá nhân trong và ngoài tỉnh tham gia phát triển đào tạo nghề với nhiều hình thức phù hợp nguyện vọng, trình độ của người lao động. Phấn đấu từ nay đến năm 2015, bình quân mỗi năm đào tạo nghề gắn với giải quyết việc làm mới cho khoảng 23 đến 25 nghìn lao động nông thôn, lao động là người dân tộc Khmer.
Trong đó, số lao động qua đào tạo nghề đạt 30% vào năm 2010 và đến năm 2015 hoàn thành chỉ tiêu 45% số lao động được đào tạo nghề, nâng cao chất lượng lao động. Thực hiện mục tiêu này, tỉnh yêu cầu các cơ quan chức năng, chính quyền địa phương tập trung vận động, tuyên truyền nâng cao nhận thức về vị trí, vai trò công tác đào tạo nghề, giải quyết việc làm gắn với thực hiện các chương trình kinh tế-xã hội địa phương. Sử dụng có hiệu quả các nguồn vốn của các chương trình kinh tế-xã hội để tham gia giải quyết việc làm, khuyến khích phát triển mô hình câu lạc bộ, hợp tác xã, trang trại, cơ sở sản xuất kinh doanh để thu hút lao động, giải quyết việc làm.
Ngoài ra, cần tăng cường giáo dục và hướng nghiệp trước khi dạy nghề, giúp học viên hiểu biết về nghề, mục tiêu nghề nghiệp và biết vận dụng nghề nghiệp vững chắc vào cuộc sống. Ðội ngũ giáo viên cũng cần phải được bồi dưỡng nghiệp vụ, nâng cao kiến thức, kỹ năng nghề nghiệp và đổi mới phương thức dạy nghề, liên kết khai thác sử dụng hiệu quả trang thiết bị. Ðồng thời ưu tiên đầu tư xây dựng, trang thiết bị kỹ thuật đồng bộ, khoa học cho các TTDN ; mở rộng mạng lưới dạy nghề, tăng quy mô đào tạo trung cấp nghề, phát triển đa dạng các loại hình và hình thức đào tạo; kết hợp dạy nghề với dạy chữ, xã hội hóa công tác dạy nghề; thực hiện các chính sách hỗ trợ người học nghề như miễn học phí, cho vay vốn tạo việc làm, đãi ngộ đội ngũ giáo viên dạy nghề; khảo sát tình hình việc làm sau học nghề để có biện pháp điều chỉnh phù hợp tình hình thực tế, giúp người dân nông thôn và đồng bào dân tộc Khmer từng bước cải thiện, nâng cao chất lượng cuộc sống.
ÐỖ NAM