Theo khảo sát, doanh nghiệp ở nhiều ngành sản xuất chủ lực đang phải đối mặt với những thách thức đặc biệt lớn. Ngoài tình trạng đơn đặt hàng sụt giảm mạnh, còn gặp khó khăn về dòng tiền, bao gồm vốn lưu động và vốn đầu tư trung, dài hạn. Nhiều doanh nghiệp đang rất vất vả để duy trì được hoạt động sản xuất, kinh doanh.
Khó khăn chồng chất
Thông tin từ các hiệp hội, ngành hàng đều phản ánh tình trạng cơ hội thị trường và đơn hàng đang sụt giảm nghiêm trọng ở nhiều ngành xuất khẩu chủ lực như dệt may, da giày, đồ gỗ nội thất, sắt thép hay xi-măng,...
Tổng Giám đốc Công ty cổ phần Tập đoàn May Hồ Gươm Phí Ngọc Trịnh chia sẻ: Từ cuối tháng 8, đơn hàng bắt đầu có dấu hiệu “đứt gãy”, nhiều doanh nghiệp sụt giảm tới 50-60% cho nên phải cắt giảm nhân công và thu hẹp quy mô sản xuất, thậm chí làm một ngày nghỉ một ngày.
Trong tình trạng chung, May Hồ Gươm cũng đang cho công nhân nghỉ ngày thứ bảy và không tăng ca, thêm giờ. Tình hình này dự báo có thể kéo dài đến hết Tết Nguyên đán hoặc nửa cuối tháng 3 năm sau. Hiện công ty đang nỗ lực tìm kiếm thêm các đơn hàng trong và ngoài nước, chấp nhận bù giá và lỗ cũng làm để bảo đảm có việc cho công nhân.
Xuất khẩu gặp khó khăn, ngành sản xuất vật liệu xây dựng còn chịu tác động từ thị trường bất động sản trong nước bị đóng băng. Phó Chủ tịch Hiệp hội Vật liệu xây dựng Việt Nam Đinh Hồng Kỳ cho biết: Hầu hết các ngành vật liệu xây dựng đang sụt giảm mạnh về sản lượng như: xi-măng giảm 30%; thép giảm tới 59% và giá cũng giảm mạnh; gạch ốp lát do cầu giảm, lại chịu cạnh tranh gay gắt với hàng nhập khẩu từ Trung Quốc nên các nhà máy cũng cắt giảm sản lượng từ 30-50%.
Hầu hết các ngành vật liệu xây dựng đang sụt giảm mạnh về sản lượng như: xi-măng giảm 30%; thép giảm tới 59% và giá cũng giảm mạnh; gạch ốp lát do cầu giảm, lại chịu cạnh tranh gay gắt với hàng nhập khẩu từ Trung Quốc nên các nhà máy cũng cắt giảm sản lượng từ 30-50%.
Phó Chủ tịch Hiệp hội Vật liệu xây dựng Việt Nam Đinh Hồng Kỳ
Đến hiện tại, hầu hết các nhà máy trong ngành vật liệu xây dựng đã phải đóng cửa bớt dây chuyền sản xuất và cho công nhân nghỉ từ ba đến bốn ngày trong tuần; không một nhà máy nào có thể bảo đảm 100% công nhân có việc làm. Đáng ngại là không thể dự báo tình hình khó khăn này sẽ kéo dài đến bao giờ bởi những bất ổn như xung đột Nga-Ukraine hay chính sách “Zero Covid” ở Trung Quốc rất khó lường trước.
Theo Bộ Công thương, một số mặt hàng chủ lực xuất khẩu sang châu Âu, Hoa Kỳ còn phải đối mặt với các áp lực về điều tra phòng vệ thương mại, gian lận xuất xứ. Châu Âu cũng đang dựng lên nhiều rào cản kỹ thuật liên quan đến môi trường, phát triển bền vững, chuyển đổi xanh,... khiến doanh nghiệp xuất khẩu bị động và gặp nhiều bất lợi trong tiếp cận thị trường.
Trong hoạt động sản xuất, doanh nghiệp phải đối mặt với hàng loạt khó khăn lớn như lãi suất tăng nhanh; tỷ giá đồng USD tăng giá làm nhập khẩu nguyên liệu đầu vào tăng kéo theo chi phí vốn sản xuất; tiếp cận vốn khó khăn hơn; quy trình hoàn thuế VAT cho các mặt hàng xuất khẩu như gỗ, cao-su,… còn chậm.
Đặc biệt, cầu thị trường giảm, cộng hưởng với chi phí đầu vào liên tục tăng cao đã ảnh hưởng mạnh đến dòng tiền của doanh nghiệp. Vấn đề càng trở nên nghiêm trọng bởi vốn của doanh nghiệp trước đó gần như cạn kiệt sau hơn hai năm dịch bệnh.
Thách thức lớn trong việc tiếp cận vốn vay đang đặt doanh nghiệp sản xuất vào những tình thế hết sức cấp bách. Các doanh nghiệp công nghiệp hỗ trợ trước đây có thể sử dụng hợp đồng đã ký kết hoặc thế chấp bất động sản để vay vốn, giải quyết phần nào “cơn khát” dòng tiền. Nhưng hiện nay, hầu hết ngân hàng đều đã ngừng giải ngân do áp lực về room tín dụng.
Mặt khác, đối với nhiều thị trường khó tính, do những cải tiến mới về quy mô, cam kết môi trường và chất lượng sản phẩm, đòi hỏi doanh nghiệp Việt Nam phải đầu tư máy móc, công nghệ mới, nhưng bởi thiếu vốn nên doanh nghiệp không thể đáp ứng yêu cầu này, dẫn đến nguy cơ khó duy trì vị trí trong chuỗi.
Các doanh nghiệp sản xuất nông nghiệp cũng thông tin việc thiếu vốn để thu mua nguyên liệu, trong khi một số nông sản, nhất là các loại hạt đang đến kỳ thu mua, tập trung vào các tháng cuối năm và đầu năm 2023. Thời gian thu mua gấp, lượng vốn cần lớn, doanh nghiệp lại không thể tiếp cận với tín dụng nên dự báo rất khó cạnh tranh lại các doanh nghiệp FDI. Nếu tình trạng này kéo dài, các doanh nghiệp khó có thể duy trì tốt hoạt động, thậm chí mất dần khả năng hồi phục.
Triển khai các hỗ trợ thiết thực
Mới đây, Ban Nghiên cứu phát triển kinh tế tư nhân (Ban IV - thuộc Hội đồng tư vấn cải cách thủ tục hành chính) đã có báo cáo gửi Thủ tướng Chính phủ về nhiều vấn đề rào cản, thách thức đang ảnh hưởng trực tiếp đến khả năng phục hồi và phát triển bền vững của doanh nghiệp cũng như nền kinh tế các tháng cuối năm 2022 và đầu năm 2023.
Để hỗ trợ nỗ lực phục hồi của doanh nghiệp, nhất là doanh nghiệp tư nhân trong nước, Ban IV và các hiệp hội cùng đề xuất Chính phủ kéo dài tới hết năm 2023 một số chính sách hỗ trợ doanh nghiệp đã phát huy hiệu quả thiết thực trong giai đoạn đại dịch Covid-19, bao gồm: chính sách giảm 2% thuế VAT; chính sách giãn/hoãn biểu giá thuê đất mới theo Nghị định 96/2019/NĐ-CP; các chính sách tín dụng như cơ cấu lại thời hạn trả nợ, như nguyên nhóm nợ,…
Bên cạnh đó, nhằm khắc phục phần nào khó khăn cho doanh nghiệp xuất, nhập khẩu, nhất là hạn chế sự bị động từ tín hiệu thị trường, Ban IV và các hiệp hội đề xuất Thủ tướng chỉ đạo Bộ Công thương phối hợp các Bộ chuyên ngành cung cấp thường kỳ thông tin cập nhật về biến động và xu hướng của các thị trường xuất, nhập khẩu lớn, kèm theo các đánh giá về cơ hội, thách thức, giúp doanh nghiệp có kế hoạch thích ứng phù hợp.
Ngoài ra, cần khẩn trương tiến hành đối thoại công-tư nhằm phân tích các giải pháp tối ưu thị trường, tìm kiếm thị trường thay thế hoặc bổ sung trong bối cảnh nhiều thị trường truyền thống cả về nhập khẩu và xuất khẩu đều gặp khó khăn. Trong quá trình này, cần chú trọng phân tích các xu hướng và yêu cầu mới phát sinh, nhất là xu hướng thiết lập các hàng rào kỹ thuật gắn với mục tiêu xanh hóa, giảm phát thải do các liên minh đang thúc đẩy trên phạm vi toàn cầu.
Bộ Công thương cho biết, thời gian tới sẽ tiếp tục đẩy mạnh triển khai các hoạt động xúc tiến thương mại, kết nối cung cầu thông qua các kênh hệ thống thương vụ, thương mại điện tử xuyên quốc gia, hỗ trợ doanh nghiệp tiếp cận chính sách mới của từng thị trường, đồng thời tập trung tháo gỡ các rào cản để đa dạng hóa thị trường, thúc đẩy xuất khẩu; hướng dẫn doanh nghiệp tận dụng các Hiệp định thương mại tự do đã ký kết, nhất là tranh thủ cơ hội khi các nước châu Âu cắt giảm sản xuất đối với một số mặt hàng công nghiệp nặng, hóa chất, phân bón, thép cũng như nhiều nước hạn chế xuất khẩu lương thực để ổn định trong nước để đẩy mạnh xuất khẩu các mặt hàng này.
Nhằm đẩy mạnh phát triển sản xuất trong nước, từng bước thay thế nhu cầu nhập khẩu trong bối cảnh mặt bằng giá cả thế giới tăng cao, Bộ Công thương sẽ tiếp tục rà soát các tồn đọng ở các dự án công nghiệp lớn có vai trò quan trọng, tháo gỡ khó khăn để sớm đi vào vận hành nhằm tăng năng lực sản xuất; thực hiện các giải pháp ổn định sản xuất, cân đối cung cầu các hàng hóa cơ bản, thiết yếu phục vụ sản xuất và tiêu dùng dịp cuối năm; hỗ trợ doanh nghiệp trong việc tìm kiếm nguồn cung nguyên, vật liệu phục vụ sản xuất với giá cả phù hợp; tổ chức kết nối các doanh nghiệp trong nước tham gia được vào chuỗi cung ứng của các doanh nghiệp FDI và doanh nghiệp lớn toàn cầu.
Các chuyên gia khuyến nghị, các doanh nghiệp cần tập trung khai thác tốt thị trường nội địa do vẫn còn dư địa gia tăng trong bối cảnh thị trường nước ngoài bị thu hẹp nhằm giữ ổn định sản xuất và việc làm cho người lao động.
Theo báo cáo của Bộ Công thương, số lượng đơn đặt hàng mới tăng chậm lại kể từ tháng 9 ở nhiều ngành hàng xuất khẩu lớn như dệt may, da giày, điện tử, đồ gỗ,... Đơn hàng ít hơn dự kiến khiến các nhà sản xuất phải hạn chế tăng sản lượng từ tháng 10. Do vậy, Chỉ số sản xuất toàn ngành công nghiệp (IIP) tháng 11 ước chỉ tăng 0,3% so với tháng trước; kim ngạch xuất khẩu hàng hóa cả nước tháng 11 ước đạt 29,18 tỷ USD, giảm 3,9% so tháng trước và giảm 8,4% so cùng kỳ.